Tập ăn dặm kiểu Pháp cho bé

11:23 |

Ăn dặm kiểu Pháp được áp dụng khi bé đủ 4-6 tháng tuổi. Những hướng dẫn cơ bản và lưu ý cho các mẹ khi cho con ăn dặm kiểu Pháp



1. Những chú ý quan trọng


* Sữa là thức ăn quan trọng nhất trong năm đầu tiên của bé.

* Tránh cho bé ăn muối. Có thể cho ăn đủ các loại glucides như: ngũ cốc, tinh bột nhưng không cho ăn hoặc cho thật ít đường.

* Khi bắt đầu giới thiệu đồ ăn cho bé, không nên thay đổi hàng ngày. Cho bé ăn vài ngày cùng 1 loại đồ ăn để quen vị sau đó mới giới thiệu loại mới.

* Khi mới bắt đầu bé chỉ có thể ăn 1 vài thìa. Lượng thức ăn tăng lên dần theo nhu cầu của bé.

* Phải nhớ cho bé uống Vitamin D (1200-2000 UI/ngày) và Flour (1/4mg/ngày)


2. Tập ăn ngũ cốc


Các loại ngũ côc và bột cho trẻ em KHÔNG CHỨA GLUTEN dành cho bé dưới 1 tuổi có thể bắt đầu cho ăn khi bé tròn 4 tháng.

Cho bé ăn ngũ cốc 1 lần/ngày, cho vào bình sữa cuối cùng trước khi bé đi ngủ để có thêm năng lượng dự trữ, bé sẽ không phải dậy để ăn đêm nữa, mẹ cũng được ngủ cả đêm.

Ban đầu cho 2 thìa cà phê bột ngũ cốc ăn liền (lấy dao để gạt ngang lượng bột dư trên thìa, không lấy thìa đầy có ngọn) vào bình sữa cuối. Lượng này có thể tăng lên theo quy tắc : 1 thìa cà phê gạt/ngày/tháng tuổi của bé nhưng KHÔNG QUÁ 9 THÌA. (Bác sĩ của Emilie dặn cho ăn ít thôi, nếu cho ăn theo quy tắc này bé dễ bị béo phì lắm).




3. Tập ăn rau củ


Không cần phải vội vàng bắt bé ăn rau. Tốt nhất là đợi đến khi bé được 5 hay 6 tháng.

Có thể cho rau nghiền vào sữa hoặc cho bé ăn bằng thìa tùy theo bé thích kiểu nào hơn.

Ngày đầu tiên: cho bé ăn từ 1-3 thìa cà phê rau. Sau đó tăng dần lên. Đến tuần thứ 3 hoặc thứ 4: cho bé ăn nguyên 1 hộp/hũ (khoảng 100-130g) (chắc mấy bé tây mới ăn nổi chứ bạn Emilie nhà mình giờ gần 7 tháng rồi vẫn chỉ vài thìa thôi).

Rau củ phải hấp chín hoặc nấu chín mềm, nghiền mịn. Lúc đầu cho bé ăn từng loại rau, củ riêng để cho bé phân biệt mùi vị và xem bé có bị dị ứng với loại nào không. Sau 6 tháng có thể trộn các loại rau với nhau cho bé ăn.

Có thể cho bé ăn rau làm sẵn trong hộp đồ ăn cho bé, rau đông lạnh hoặc làm rau tươi.


* Đồ ăn sẵn đóng hộp cho bé:


Đồ ăn hộp có chất lượng tốt, đa dạng, nhiều kích cỡ để dễ sử dụng. Nó đảm bảo có các Vitamin và không có nitrat. Tuy nhiên nếu cho ăn thường xuyên, bé sẽ có nguy cơ từ chối các loại rau tươi.

Có thể bảo quản được 24h trong tủ lạnh sau khi mở hộp lần đầu (đóng nắp chặt lại).

Loại hộp cho bé trước 6 tháng: đồ ăn được xay nhuyễn mịn

Loại hộp cho bé sau 6 tháng: Đồ ăn thô hơn, có thể có miếng/vụn nhỏ lẫn bên trong.

* Rau tươi:


Khái niệm “tươi” được nói đến ở đây dựa trên lượng Vitamin C. Rau quả mới hái có lượng Vitamin C cao nhất. Vitamin C mất dần đi trong quá trình bảo quản.

Các loại rau có thể cho bé ăn: đậu Pháp (haricot vert) (giống đậu đũa nhưng ngắn khoảng 10-15cm), cà chua (bỏ vỏ, bỏ hạt), rau mùi tây (persil), xà lách, nấm, cà tím, củ cải tím, endives, atisô, cà rốt, súp lơ, súp lơ xanh, bí ngòi (bỏ vỏ và hạt), boa rô (chỉ lấy phần trắng), bí ngô. Hạt đậu Hà Lan cho ăn hạn chế, xay thật mịn.

Không cho ăn cải Bruxelle (đắng lắm) và các loại rau sấy khô.

Tránh cho ăn rau bó xôi và boa rô khi bé mới bắt đầu tập ăn vì 2 loại này rất nhuận tràng, trừ trường hợp bé bị táo bón.

Không cho bé ăn khoai tây khi bé chưa tròn 5 tháng (trừ trường hợp dùng thật ít để làm đặc súp).

Tránh cho bé ăn cà rốt và rau bó xôi tươi trước khi bé tròn 6 tháng vì có lượng nitrat cao. Nên cho ăn đồ hộp.

* Rau đông lạnh:


Rau đông lạnh rất tốt cho mùa đông vì phương pháp này giữ được rất nhiều Vitamin C.



4. Tập ăn quả


15 ngày sau khi bé tập ăn rau, có thể cho bé ăn quả.

Quả hấp chín, nấu chín, nấu bằng lò vi sóng, nghiền mịn, không cho thêm đường.

Sau 6 tháng có thể cho bé ăn 1 ngày quả nấu chín, 1 ngày quả tươi.

Lúc đầu cho bé ăn các loại quả ít chua như: táo, lê, chuối hoặc trộn lẫn táo với lê, táo với chuối. Cho ăn quả vào bữa chiều (giữa bữa trưa và bữa tối).

Cho bé ăn hoa quả theo mùa.

Các loại cam, quýt, bưởi và Kiwi rất giàu Vitamin C nhưng kiwi rất dễ gây dị ứng.

Lê, táo, dâu tây, mơ,… chứa ít Vitamin C hơn. Chuối gây táo bón.

(Cái này cũng có nhiều mẹ hỏi, tớ đã nghiên cứu và theo các chuyên gia dinh dưỡng thì mỗi ngày cha mẹ nên cho con ăn 1 quả chuối. Do trong chuối có chứa nhiều mangan và kali rất tốt cho cơ thể, nhưng nếu bé ăn quá nhiều chuối có thể gây ra tình trạng tăng kali máu. Khi ấy, bé có thể gặp các triệu chứng bao gồm yếu cơ, tê liệt tạm thời và nhịp tim không đều.
Đặc biệt, hàng ngày bé nhà bạn đã ăn rất nhiều các loại thực phẩm bổ sung vitamin khác mà còn ăn nhiều  chuối sẽ khiến dư thừa hàm lượng vitamin và khoáng chất quá cao. Điều này có thể gây khó khăn rất lớn cho quá trình tiêu hóa. Kết quả khiến bé bị đầy hơi và đau dạ dày.)

5. Tập ăn các sản phẩm từ sữa và phô mai


Nên dùng các sản phẩm từ sữa dành riêng cho bé, ít protein, giàu sắt, giàu các acid béo thiết yếu và Vitamin. Các sản phẩm này chỉ dùng bổ sung thêm chứ không thể thay thế cho Sữa mẹ hoặc sữa công thức.

Bắt đầu từ khi bé tròn 5 tháng có thể cho ăn các sản phẩm này.

Sữa chua: từ ½-1 hũ/ngày

Petit suisse 30-35% chất béo, fromage blanc: 1 hũ/ngày khi bắt đầu cho ăn (dạng phô mai tươi dùng để ăn như sữa chua nhưng đặc hơn và béo hơn).



Cách quy đổi:

150ml sữa = 1 sữa chua

= 60g fromage blanc

= 30g phô mai

= 4 petit suisse 30g (30% chất béo)


6. Tập ăn thịt, cá, gan và gia cầm


Thịt là thiết yếu trong năm đầu tiên của bé. Tuân thủ các quy tắc như khi tập ăn rau củ.

Từ 6 tháng có thể cho bé ăn thịt (cẩn thận hơn thì bắt đầu cho ăn thịt 1,5 tháng sau khi tập ăn rau. Emilie 6,5 tháng bác sĩ mới bắt đầu cho ăn thịt)

Lượng ăn: Từ 6 tháng: 5g-15g/ngày (5g = 1 thìa cà phê thịt xay)

Sau 8 tháng: 10g-30g/ngày


* Thịt và gia cầm:


Thịt trắng và thịt đỏ có giá trị dinh dưỡng như nhau.

Tránh cho bé ăn các loại thịt nhiều mỡ như: thịt heo, thịt cừu.

Có thể cho ăn: thịt bê, thịt cừu non, thịt bò, thịt ngựa, jambon trắng không béo.

Đối với thịt gia cầm (như gà, gà Nhật, gà tây,…) thì chỉ cho ăn phần thịt lườn (thịt trắng), và thịt thỏ.

Thường ở đây bắt đầu tập cho bé ăn thịt thì cho ăn thịt trắng trước như thịt gia cầm, thịt bê; khi quen rồi mới cho ăn thịt đỏ.

Chế biến: Thịt phải chín kĩ (luộc hoặc nướng không có dầu mỡ), băm nhỏ và xay mịn. Bé chưa ăn được thô thì phải lọc qua rây vì thịt xay xong vẫn còn sót nhiều mẩu thịt vụn, bé dễ hóc.


Cách quy đổi:


10g thịt = 2 thìa cà phê thịt tươi xay

1 thìa cà phê trong hũ thịt bán sẵn cho bé

Đối với jambon: 1 thìa súp = 10-15g

* Gan:


Các loại: gan bê, gan cừu, gan gia cầm, gan heo đều có thể cho bé ăn.

Chế biến: luộc nhanh, băm nhỏ hoặc nướng không có dầu mỡ.

* Cá:


Cá cũng có giá trị dinh dưỡng như thịt.

Cho bé ăn các loại cá ít béo như: merlan, cá thờn bơn (limande), cá hét(colin/lieu), morou, cá tráp (daurade), cá bơn lá mít (sole), cá hồi sông, cá moruy chấm đen (cabillaud),… (chịu, không dịch được em merlan, morou là em cá gì :p)

Các loại cá béo như: cá ngừ, cá hồi, sardines, hareng,… không được cho ăn trước 2 tuổi.

Mọi người cho ăn cá khá muộn, tầm 7-8 tháng mới bắt đầu cho bé tập ăn.

Chế biến: nấu nhanh. Có thể nấu chung với rau

Quy đổi: 50g cá = 50g thịt



TRONG 1 TUẦN có thể cho bé ăn:

2 lần thịt gia cầm – 1 lần gan – 1 lần cá – 1 lần jambon – 2 lần thịt

Trước 8 tuổi chỉ cho bé ăn 1 BỮA CÓ THỊT (hoặc CÁ/GAN/JAMBON)/ngày

Lượng cho ăn:

6 tháng: 3 thìa cà phê (15g)

Từ tháng thứ 8: 4 thìa cà phê

1 tuổi: 4-6 thìa cà phê


*Trứng (cả lòng trắng và lòng đỏ) không cho bé ăn trước 1 tuổi vì có thể bị dị ứng (chắc dân châu Á mình chả bị đâu ^^)


7. Tập ăn chất béo


Có thể cho 1 hạt bơ nhỏ vào rau hoặc cháo/súp (khoảng ½-1 thìa cà phê) sau 6 tháng.

Những điều cần chú ý khi đưa trẻ đi tiêm Vắc Xin

11:20 |
Thông thường, trong một số trường hợp sức khỏe không ổn định thì việc tiêm vaccine sẽ làm bệnh nặng thêm hoặc vaccine bị giảm tác dụng.


1. Hãy nói về tình trạng sức khỏe với bác sĩ


 BS.Nguyễn Thị Thu Trang, Trung tâm Phòng chống dịch – tư vấn – tiêm chủng vaccine, Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương cho biết: Các đối tượng sau thì không được tiêm chủng một số loại vaccine: sốt cao, đang trong tình trạng dị ứng, thiếu hụt miễn dịch, đang dùng thuốc đàn áp miễn dịch, mắc bệnh ác tính… Bởi vậy trước khi tiêm vaccine, hãy nói với bác sỹ về tình trạng sức khỏe của mình để bác sỹ tư vấn có nên tiêm lúc đó hay không.

2. Đưa trẻ đi chủng ngừa, chớ cho ăn no


Trẻ nhỏ thường sợ hãi khi đi tiêm nên có thể quấy khóc, giãy giụa. Tình trạng đó, kết hợp với việc ăn no sẽ có thể gây nôn chớ, bất lợi cho việc chủng ngừa, đặc biệt nếu chủng ngừa dưới dạng đường uống. Bởi vậy không cho trẻ ăn/bú quá nhiều, no trước một vài giờ tiêm chủng.


3. Đừng quên sổ tiêm chủng


Sổ tiêm chủng cá nhân để khai thác các yếu tố như tiền sử thai sản, tình trạng hiện tại của trẻ, tình trạng dinh dưỡng, tiền sử bệnh tật. Các bậc cha mẹ nên lưu giữ hồ sơ tiêm chủng cho trẻ cho đến khi trưởng thành, tránh các trường hợp bị nhàu nát hay làm mất.

4. Quan sát người tiêm


Thông thường cha mẹ thường chỉ quan tâm giữ con, để con không giẫy đạp, khỏi khóc mà không để ý thái độ của người tiêm. Gần đây vụ việc ăn bớt vaccine ở Trung tâm Y tế dự phòng Hà Nội, 70 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội đã khiến nhiều người giật mình. Vì người cha của trẻ đã quan sát kỹ bác sĩ nên mới phát hiện rằng con anh ta đã không được tiêm đủ liều. Bởi thế, để tránh rơi vào tình huống xấu này, bạn nên chú ý bác sĩ, xem họ có làm đúng quy trình: lắc đều lọ đựng thuốc, rút hết vaccine vào xi lanh, sau đó tiêm đúng chỗ.

Nếu thấy nhân viên y tế đã hút sẵn vaccine vào xi lanh hoặc đậy nắp xi lanh sau tiêm, lưu kim tiêm ở nắp lọ vaccine, bạn nên yêu cầu họ giải thích, vì đó là những hành động bất thường. Nếu họ giải thích không thỏa đáng, bạn nên báo với cấp quản lý cao hơn của đơn vị tiêm chủng.

5. Nhớ lấy vỏ của vaccine


Gần đây đã có nhiều thông tin về việc phòng tiêm chủng dùng vaccine quá hạn sử dụng. Bởi vậy, khi đi tiêm chủng, hoặc cho con đi tiêm chủng, bạn nên lấy lại vỏ vaccine (ở một số địa điểm, bác sĩ không chủ động đưa lại vỏ vaccine cho bạn, bạn hãy tự đề nghị).

Bác sỹ Trang lưu bạn nên xem nhãn của vaccine, bao gồm: tên vaccine, nước sản xuất, tác dụng phòng bệnh và tác dụng phụ. Nên quan sát vỏ hộp để xem hạn sử dụng của vaccine, loại vaccine có bơm tiêm đóng sẵn hay loại dung dịch + bột riêng. Trên lọ vaccine cũng có ghi rõ liều lượng(ml) với người lớn/trẻ em. Đọc nhãn sẽ giúp bạn phản ánh ngay tình trạng sai sót để kịp khác phục.

Bạn cũng chú ý, theo quy định của Bộ Y tế, trong quy trình tiêm chủng, người đi tiêm có quyền yêu cầu nhân viên y tế cho xem bao bì vaccine trước khi tiêm. Bởi thế, nếu tỏ ra nghi ngờ, bạn nên đề nghị họ cho xem nhãn trước khi rút thuốc vào xi lanh.

6. Đọc chỉ thị màu trên nhãn


Hiện nay, rất nhiều gia đình dùng dịch vụ tiêm vaccine tại nhà. Điều đó đặt ra câu hỏi là liệu vaccine mang đến nhà có đảm bảo chất lượng, có được bảo quản lạnh đúng cách không. Thậm chí vaccine tại nhiều cơ sở tiêm chủng, nhất là ở nơi xa trung tâm cũng có thể xảy ra hiện tượng không được bảo quản đúng cách.

Theo quy định vaccine chỉ được bảo quản tối đa ở cơ sở là 3 tháng, còn lại giữ tại kho lạnh Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương. Vaccine không được bảo quản ở nhiệt độ nhất định, không được nóng hơn và cũng không được để lạnh hơn. Nhìn vào vỏ đựng vaccine sẽ giúp bạn nhận biết chúng có được bảo quản lạnh đúng cách không.

Nhưng thực tế, rất ít người nắm bắt được không tin này, và hầu như không có ai kiểm tra chất lượng bảo quản lạnh của vaccine khi đi tiêm. Trên nhãn của mỗi loại vaccine sẽ có một biểu tượng hình tròn màu để chỉ thị nhiệt độ. Nếu không được bảo quản đúng nhiệt độ, chỉ thị màu sẽ chuyển màu rất sẫm, dễ nhận biết.

7. Hãy ở lại phòng tiêm chủng 30 phút


Thông thường, nhiều người chỉ chờ đợi đến lượt được tiêm, rồi tiêm xong là vội vã ra về. Nhưng theo đúng quy trình tiêm chủng, mỗi người sau tiêm nên ở lại phòng đợi 30 phút. Bởi về nguyên tắc không có vaccine nào đạt an toàn 100%. Sẽ có một số ít trường hợp gặp phản ứng nguy hiểm ngay sau tiêm như sốc phản vệ, dị ứng.

Bởi vậy khi đi tiêm hoặc đưa trẻ đi tiêm, bạn nên ở lại phòng đợi sau 30 phút để theo dõi các phản ứng. Nếu có những biểu hiện bất thường (mệt, khó thở, mẩn đỏ, co giật, chân tay lạnh…) cần báo ngay với nhân viên y tế tại chỗ.

Theo Làm cha mẹ

Những sai lầm làm suy giảm hệ miễn dịch của bé

15:10 |

Con mới chớm ho, sốt, sổ mũi…nhiều gia đình đã cuống quít lo lắng và tìm mua thuốc kháng sinh cho trẻ uống. Chính tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh là một trong những nguyên nhân lớn khiến hệ miễn dịch của trẻ bị suy giảm. Lý do vì sao?


1. Lạm dụng kháng sinh


Lạm dụng kháng sinh sẽ diệt các vi khuẩn trong cơ thể nhưng nó lại diệt cả những vi khuẩn có lợi. Sự hiện diện của những vi khuẩn có lợi này có thể ức chế sự sinh sản của vi khuẩn, đóng một vai trò trong việc phòng chống dịch bệnh. Nếu những vi khuẩn có lợi này chết, khả năng phòng thủ của cơ thể sẽ giảm xuống.

Thay vì cho con uống kháng sinh ngay khi mới chớm bệnh, mẹ nên để cơ thể bé tự kiểm soát căn bệnh trong tình trạng hợp lý. Lạm dụng kháng sinh là tương đương với việc tước đoạt cơ hội tự tăng cường miễn dịch của cơ thể bé. Ngoài ra, nên cho bé tập thể dục và cải thiện hệ thống miễn dịch của cơ thể trong cuộc chiến chống bệnh tật

2. Quá sạch sẽ


Chú ý đến vệ sinh là cần thiết, nhưng vệ sinh cũng cần phải có mức độ. Không nên bao bọc con trong môi trường quá sạch sẽ, nếu không, cơ thể bé sẽ không có cơ hội để tiếp xúc với những vi sinh vật nhỏ, không thể kích thích cơ thể sản xuất kháng thể. Từ đó, trẻ chỉ cần gặp chút xíu bụi bẩn hay tiếp xúc với một chút vi trùng cũng đã có thể mắc bệnh.

Trẻ nhỏ chỉ cần một môi trường nhà ở sạch sẽ, thông thoáng. Không cần tất cả mọi thứ điều phải khử trùng.

Cho bé sờ vào bụi bẩn không phải là điều xấu, miễn là bé biết rửa tay sau đó, đồng thời không cho lên miệng.

3. Ngủ kém


Giấc ngủ không chỉ là một trong những cách quan trọng và tốt nhất để nghỉ ngơi mà còn để duy trì khả năng miễn dịch của cơ thể. Một giấc ngủ khi đang bệnh cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự phục hồi của cơ thể bé. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng trẻ có giấc ngủ kém sẽ có nhiều khả năng mắc bệnh hơn bình thường. Do đó, để con có hệ miễn dịch khoẻ mạnh, mẹ cần đảm bảo trẻ ngủ đủ và ngủ chất lượng.

Mặc dù khoảng thời gian giấc ngủ của mỗi bé sẽ khác nhau, nhưng hầu hết trẻ sơ sinh ngủ khoảng 16-20 giờ một ngày; 1-3 tháng, em bé ngủ khoảng 16 giờ một ngày; 4-12 tháng tuổi 14-15 giờ và 1-3 tuổi là 12-13 giờ/ngày.

Chất lượng giấc ngủ của trẻ cũng rất quan trọng. Mẹ nên tạo ra một môi trường giúp bé ngủ thoải mái, hạn chế làm phiền khi con đang ngủ.

Hãy giúp em bé phát triển thói quen ngủ tốt đều đặn, không để cho bé thức khuya.

4. Tập thể dục quá nhiều hoặc quá ít


Tập thể dục ở mức độ thích hợp có thể giúp cải thiện sức sống của các tế bào miễn dịch của cơ thể. Đối với trẻ em, vận đồng cũng giúp các bé đỡ bị bệnh. Tuy nhiên, tập thể dục quá mức lại có hại. Vì vậy mẹ nên lưu ý cho con vận động đúng khả năng.

Mức độ vận động của trẻ em được chia theo các nhóm tuổi khác nhau. Một em bé mới biết đi không thể nào đi bộ hơn 1km hay tập…đu xà, nhảy dây được. Mẹ nên cho bé ra ngoài trời vận động nhẹ nhàng, kích thích tay chân bé được hoạt động là được.


5. Thiếu hụt dinh dưỡng


Hệ thống miễn dịch của cơ thể bao gồm các cơ quan miễn dịch, tế bào miễn dịch, các phân tử miễn dịch để tạo thành. Hệ thống miễn dịch cũng cần phải đảm bảo có đủ các chất dinh dưỡng cơ bản. Nếu thiếu hụt dinh dưỡng chắc chắn sẽ dẫn đến khả năng miễn dịch thấp, giảm chức năng miễn dịch.

6. Căng thẳng cảm xúc và khó chịu


Khả năng miễn dịch liên quan chặt chẽ với cảm xúc. Các trạng thái căng thẳng, lo âu, mất mát và những cảm xúc tiêu cực khác có thể gây suy giảm hệ miễn dịch của bé. Trẻ hạnh phúc, vui vẻ, tâm trạng thoải mái đương nhiên sẽ giúp hệ miễn dịch duy trì tình trạng tốt nhất.

Nếu trong gia đình cha mẹ, người thân thường xuyên xung đột thì em bé cũng sẽ có cảm giác lo lắng, dễ bị bệnh.

Bệnh viêm họng ở trẻ sơ sinh

15:40 |
Họng được biết đến như một nên một trạm trung chuyển không khí, thức ăn và nước uống đi vào cơ thể. Nếu một trong 3 đầu vào này bị nhiễm khuẩn thì sẽ sẽ gây ra bệnh viêm họng. 



Tuy nhiên nguyên nhân gây ra bệnh viêm họng trẻ sơ sinh chủ yếu từ không khí ô nhiễm hoặc do nhiệt độ ( vì trẻ sơ sinh chưa được ăn dặm và chủ yếu nguồn dinh dưỡng từ sữa mẹ )

Nguyên nhân gây bệnh viêm họng trẻ sơ sinh


Do thời tiết thay đổi đột ngột 


Những thời điểm giao mùa, thời tiết thường thay đổi nóng lạnh đột ngột. Vì vậy các mẹ cần đặc biệt chú tâm trong thời điểm này. Tuy nhiên, chăm sóc trẻ sơ sinh bằng cách luôn mặc quần áo dài hoặc đắp chăn kín mít không phải là một giải pháp hay.
Khi trẻ nóng quá, mồ hôi ra nhiều mà không được thông thoáng sẽ thẩm thấu ngược trở lại các loại vi khuẩn, gây ra các bệnh nhiễm khuẩn khác, trong đó có bệnh viêm họng trẻ sơ sinh


Không khí bị ô nhiễm, khói thuốc lá, khói bụi, lông động vật, lông thú bông là những nguyên nhân gây ra bệnh viêm họng ở trẻ. 


Đây là những nguyên nhân mà người lớn hoàn toàn có thể phòng tránh được. Một lưu ý nữa là bố mẹ không nên để trẻ cho tay hay đồ chơi vào miệng, vì như vậy cũng là một nguồn vì khuẩn đi vào cơ thể

Nằm phòng điều hòa nhiệt độ thấp, chiếu quạt thẳng vào người trẻ là những nguyên nhân gây ra bệnh viêm họng trẻ sơ sinh. 

Trong trường hợp này, nhiệt độ điều hòa thích hợp nhất là trên 26 độ C. Nếu dùng quạt thì các mẹ nên để quạt quay thẳng vào tường đi qua chân của trẻ, vì như vật chánh được hướng gió thổi thẳng vào mặt trẻ ( tương tự như vậy với điều hòa )


Dấu hiệu nhận biết khi trẻ sơ sinh đã bị viêm họng


Bệnh viêm họng trẻ sơ sinh thường bú ít hoặc bỏ bú. Trẻ thường há miệng khi ngủ, bứt rứt khó chịu và quấy khóc. Ngoài ra, với triệu chứng nặng hơn, trẻ có thể sốt và kèm theo các biểu hiện khác như chảy nước mũi. Với trẻ sơ sinh, sốt trên 38 độ C là dấu hiệu nghiêm trọng mà bố mẹ cần ngay lập tức đưa trẻ đi khám, tránh tự điều trị

Phòng bệnh viêm họng trẻ sơ sinh như thế nào ?


Giữ vệ sinh cơ thể, vệ sinh môi trường và nhiệt độ thích hợp là cách phòng tránhbệnh viêm họng trẻ sơ sinh tốt nhất.

Các mẹ chú ý:


 Sau khi thay tả cho trẻ, sau khi đi vệ sinh các mẹ cần phải vệ sinh bàn tay thật sạnh sẽ. Vì khi tiếp xúc như âu yếm, đụng chạm lên mặt lên đầu trẻ, rât có khả năng vi khuẩn sẽ lây lan qua con đường này.
Cách ly trẻ sơ sinh với những người nhà mắc các bệnh về đường hô hấp: Nếu một người lớn chỉ vô tình ho hay hắt hơi, vi khuẩn sẽ theo đường không khi tiếp xúc với trẻ.
Hãy từ chối nếu một người thân đang có những triệu chứng trên đòi bế bé

Bảo vệ bé bằng cách kiểm soát khi bé chơi với thú bông hoặc thú cưng. Lông từ 2 loại “động vật” này rất có thể bay vào miệng trẻ và gây ra nhiễm khuẩn dẫn đến viêm họng . Nếu phòng bé ngủ có điều hòa: hãy ở cửa khi không bật điều hòa để không khí được lưu thông. Nhiệt độ trong phòng luôn đảm bảo trên 26 độ C.
Khi chuyển từ phòng điều hòa sang phòng khác, nên tắt điều hòa và ở nguyên trong phòng 15 phút trước khi di chuyển ra ngoài. Với quạt thì không được để quạt chiếu thẳng vào mặt trẻ. Để quạt thổi thẳng vào tường và đi qua chân của trẻ.
Khi đưa bé đi dạo, các mẹ nên tránh nơi đông người. Chú ý đeo khẩu trang cho trẻ khi đi ngoài đường, ưu tiên những nơi ít người mà nhiều cây xanh như công viên. Bệnh viêm họng trẻ sơ sinh người lớn hoàn toàn có thể chủ động phòng tránh được.
Thực hiện đúng những biện pháp nêu trên và cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu sẽ giúp trẻ phòng chống được nhiều bệnh khác về đường hô hấp. Khi trẻ có biểu hiện của viêm họng và sốt cao trên 38 độ C, các mẹ cần phải đưa trẻ đi khám ngay để kịp thời điều trị

Suy hô hấp ở trẻ sơ sinh và cách điều trị

15:31 |
Suy hô hấp là một bệnh có tính chất không hề đơn giản. Hội chứng này có thể điều trị dứt điểm mà không để lại biến chứng cho trẻ nếu cha mẹ phát hiện ra bệnh và xử lý đúng khi trẻ phát bệnh. Ngược lại nếu không phát hiện sớm và điều trị đúng cách sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng cho trẻ.



Sau khi trẻ lọt lòng mẹ, các cơ quan nội tạng bắt đầu hoạt động và phối hợp rất nhịp nhàng để duy trì chức năng hô hấp. Nếu khả năng thích ứng đó bị rối loạn thì ở trẻ sẽ xuất hiện những triệu chứng suy hô hấp. Đây là triệu chứng của nhiều bệnh không chỉ ở hệ hô hấp mà còn có thể ở tim mạch, màng não, hoặc chỉ đơn thuần do trẻ bị hạ thân nhiệt, hạ đường huyết...

Theo dõi trẻ, nếu thấy một trong những triệu chứng sau thì có thể trẻ đang trong tình trạng suy hô hấp:

- Rối loạn nhịp thở: Quan sát và đếm nhịp thở. Trẻ thở nông, nhanh không đều, nhịp thở trên 60 lần/phút.


- Màu sắc da: Da trẻ bị tím hoặc tái. Tím tái toàn thân hoặc tím quanh môi và tứ chi.


- Trẻ khó thở, co kéo lồng ngực và các cơ liên sườn, lõm xương ức. Di động của ngực và bụng không nhịp nhàng theo nhịp thở. Cánh mũi phập phồng có tiếng rên ở thì thở ra.


Khi trẻ bị suy hô hấp, cơ thể bị thiếu dưỡng khí, nếu không được khắc phục sẽ có hậu quả nghiêm trọng. Trẻ phải được khám và chẩn đoán chính xác để có cách xử lý thích hợp. Trong thực tế, có những trường hợp suy hô hấp không thể điều trị khỏi bằng nội khoa mà phải giải quyết bằng phẫu thuật hoặc thủ thuật cấp cứu, chẳng hạn như tắc thực quản - rò khí thực quản, thoát vị cơ hoành, tràn khí màng phổi…

Trong lúc chuẩn bị đưa trẻ đến bệnh viện, cần nhanh chóng thông đường thở, đặc biệt là đối với trẻ suy thở do sặc sữa hoặc sặc đờm, dãi. Dùng ngón tay quấn khăn sô lau sạch miệng và họng. Nhanh chóng dùng miệng hoặc dụng cụ hút mũi cho trẻ. Phải làm nhanh và nhẹ nhàng, tránh làm tổn thương niêm mạc miệng. Nới rộng tã, áo để trẻ dễ thở. Phải giữ ấm bằng chăn, túi nước ấm, chú ý không được làm bỏng trẻ. Bế trẻ ở tư thế đầu hơi cao, ngửa cho dễ thở.

Để phòng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, ngoài việc phát hiện sớm các bệnh lý, yếu tố chăm sóc nuôi dưỡng cũng rất quan trọng. Không được để trẻ bị lạnh, giữ trẻ ở nhiệt độ ngoại cảnh 27-28 độ C, nhất là vào mùa đông. Bảo đảm bú mẹ tốt, cho trẻ bú theo nhu cầu nhưng nếu trẻ ngủ lâu quá 3 giờ không dậy thì phải đánh thức dậy cho bú. Nhiều bà mẹ thấy con ngủ say cứ để cho ngủ, có khi 5-6 giờ liền. Như vậy trẻ sẽ bị đói, bị hạ đường huyết, hạ thân nhiệt và có thể dẫn đến suy thở.

Suy hô hấp là hội chứng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng hô hấp của trẻ, do đó việc đầu tiên khi điều trị bệnh là thông đường thở cho trẻ, nhất là đối với trẻ suy thở do sặc sữa hoặc sặc đờm dãi.

Các bà mẹ hãy đưa con đi cấp cứu ngay khi thấy trẻ thở nông, nhanh không đều, da tím tái, nhất là co kéo lồng ngực. Đây chính là biểu hiện suy hô hấp - một nguyên nhân gây tử vong cao ở trẻ sơ sinh, nhất là trẻ sinh non.

 Điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh


Nguyên tắc chung trong quá trình điều trị suy hô hấp ở trẻ là dùng surfactant thay thế, đảm bảo tốt thông khí và oxy máu, duy trì khả năng chuyên chở oxy, có thể hỗ trợ cho trẻ thở bằng bình ôxy.


Ngoài ra, cần cung cấp đủ năng lượng, điều trị các nguyên nhân gây ra suy hô hấp, áp dụng các phương pháp hỗ trợ như bảo vệ thân nhiệt, dinh dưỡng, hỗ trợ tuần hoàn và điều trị nhiễm trùng cho trẻ.

Suy hô hấp là hội chứng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng hô hấp của trẻ, do đó việc đầu tiên khi điều trị bệnh là thông đường thở cho trẻ, nhất là đối với trẻ suy thở do sặc sữa hoặc sặc đờm dãi.

Bạn có thể sử dụng tay quấn vải hoặc các dụng cụ y tế chuyên dụng đề lau khô sạch miệng và họng của trẻ. Nhanh chóng hút mũi cho trẻ. Do trẻ vừa mới sinh còn bé và sức khỏe yếu, sức đề kháng chưa tốt, đặc biệt là trẻ sinh non. Vì vậy tất cả các hành động phải làm nhanh và nhẹ nhàng, tránh làm tổn thương niêm mạc miệng của trẻ.

Nếu trẻ đã rơi vào trạng thái hôn mê, cần hút đờm nhớt, ngửa đầu, nâng cằm trẻ, đặt ống thông miệng hầu.

Trong điều trị các triệu chứng, bác sĩ thường dùng thủ thuật Heimlich (là thủ thuật dùng để cấp cứu khi có dị vật lọt vào choán gần hết diện tích của đường thở) với trẻ trên 2 tuổi, ấn ngực vỗ lưng với trẻ dưới 2 tuổi. Ngoài ra có thể sử dụng khí dung Adrenaline 1%, Dexamethasone để điều trị giúp lưu thông khí tốt hơn.

Khi trẻ bị suy hô hấp, lượng oxy bị thiếu hụt nghiêm trọng do đó cần kịp thời cung cấp oxy cho trẻ. Khi trẻ có các biểu hiện như tím tái hoặc thở co lõm ngực nặng, thở nhanh trên 70 lần/phút bạn có thể cung cấp Oxygen cannula 30-40 % cho trẻ với liều lượng là 0.5-3 l/ph, hoặc 1-6 l/ph tùy thuộc vào độ tuổi và chỉ định của bác sĩ.


Nếu bệnh nhân ngừng thở hoặc thở không tốt có thể sử dụng đến bóng Mask ở nội khí quản giúp bệnh nhân thở tốt hơn. Sử dụng tới bình oxy để hỗ trợ thở cho trẻ suy hô hấp, thở bằng phương pháp CPAP nếu trẻ có một số bệnh lý về phổi như viêm phổi, phù nặng, bệnh viêm màng trong...

Chú ý nếu trẻ bị số cao trên 38 độ C cần phải giảm lượng tiêu thụ oxygen để tránh phát một số bệnh liên quan tới não, thần kinh và tim mạch. Duy trì cung lượng tim đầy đủ bằng dịch truyền, thuốc tăng co bóp tim…

Phòng ngừa viêm nhiễm trùng cho trẻ khi mắc suy hô hấp cần đặc biệt quan tâm. Nguyên nhân là do nếu trẻ mắc viêm nhiễm trong quá trình điều trị, hiệu quả điều trị sẽ không cao, trẻ dễ có khả năng bị tái phát bệnh và điều trị lần sau sẽ vô cùng khó khăn.

Do đó các dụng cụ hô hấp, các dụng cụ khác như hút đờm, nội khí quản phải được vô trùng tuyệt đối. Cha mẹ nên chú ý khi trẻ có các triệu chứng suy hô hấp cần đưa trẻ tới ngay bệnh viện để được thăm khám và cấp cứu kịp thời.

Bệnh viêm phế quản ở trẻ sơ sinh

15:24 |
Viêm phế quản ở trẻ nhỏ nếu không được điều trị sớm rất dễ dẫn đến các biến chứng hô hấp. Trẻ rất dễ mắc các bệnh đường hô hấp do sức đề kháng còn non yếu và khi thời tiết thay đổi



Dưới đây là một số kiến thức tổng quan về viêm phế quản ở trẻ sơ sinh, các mẹ có thể tham khảo.

Dấu hiệu nhận biết viêm phế quản


Viêm phế quản gặp nhiều ở trẻ bú mẹ và có nhiều triệu chứng rất dễ nhầm lẫn với các bệnh hô hấp khác.

Trẻ bị viêm phế quản thường bị ho, hắt hơi, chảy nước mũi có thể kèm theo sốt nhẹ. Cơn ho có thể ngày một kéo dài, nhất là về nửa đêm hoặc gần sáng. Khi đó, trẻ thường bị thở khò khè, khó thở hoặc bú kém, trẻ có thể bị nôn trớ. Ở những trường hợp nặng hơn, trẻ có dấu hiệu thở hổn hển từng nhịp, bú kém, tinh thần sa sút, không muốn chơi đùa…

Nguyên nhân viêm phế quản ở trẻ


Nguyên nhân chủ yếu do thời tiết thay đổi, nhiễm trùng đường hô hấp.

Trẻ bị dị ứng khói thuốc lá, phấn hoa, lông , thức ăn, hóa chất và một số loại thuốc cũng làm tăng nguy cơ bị viêm phế quản.

Dấu hiệu nào cần đưa trẻ đi khám


Khi trẻ bị sốt cao, cánh mũi thở phập phồng, trẻ thở mạnh khiến bụng thóp lại, nhịp thở nhanh … Dấu hiệu đặc biệt nguy hiểm là khi trẻ bị tái môi hoặc đầu ngón tay.

Viêm phế quản nếu không được điều trị sớm trẻ rất dễ bị nguy cơ mắc những biến chứng nguy hiểm như suy hô hấp.

Điều trị viêm phế quản ở trẻ sơ sinh


Trong các trường hợp nhẹ, các bác sỹ khuyến cáo không nên dùng kháng sinh cho trẻ. Khi đó các phương pháp điều trị chủ yếu là long đờm, ăn uống đầy đủ. Chăm sóc trẻ tốt, sức khỏe của trẻ có thể tự hồi phục sau vài ba ngày. Ở giai đoạn này, các mẹ nên tăng cường cho trẻ bú mẹ, giữ ấm cho bé trong những ngày trời lạnh. Nên bổ sung lượng nước theo nhu cầu hàng ngày của trẻ. Nước đun sôi để nguội, nước hoa quả hoặc nước cháo… cũng rất tốt cho trẻ trong trường hợp này.

Chọn những loại thức ăn dễ tiêu, ít chất béo, ít chất ngọt trong khẩu phần ăn của trẻ và chia thành nhiều bữa nhỏ trong ngày.

Có thể dùng nước muối sinh lý nhỏ mũi cho trẻ, nhỏ mỗi lần 3 – 4 giọt, mỗi ngày 2 – 3 lần. Sau đó, bạn có thể dùng khăn mềm lau khô để thông mũi cho trẻ.

Nếu trẻ bị sốt, không nên ủ ấm trẻ quá kỹ.
 Cho trẻ mặc những loại quần áo rộng rãi, thoáng mát, có thể dùng nước mát chườm nhẹ vùng nách, cổ, bẹn. Trường hợp trẻ bị sốt cao, các mẹ có thể dùng paracetamol để hạ sốt nhưng nên tham khảo ý kiến bác sĩ về liều lượng và cách thức sử dụng.

Cách phòng tránh


Các bậc cha mẹ nên lưu ý một số vấn đề dưới đây để phòng ngừa viêm phế quản cho trẻ:

Vệ sinh cơ thể, tai, mũi, họng cho trẻ hàng ngày.

Tách ly trẻ với các tác nhân gây dị ứng, môi trường khói thuốc lá, hóa chất, không nên để bé tiếp xúc với chó, mèo.
Các mẹ nên vệ sinh tay sạch sẽ khi bế hoặc cho trẻ bú.

Giữ cho phòng ngủ của trẻ luôn thông thoáng, trong lành. Không nên trải thảm trong phòng trẻ. Nên thường xuyên giặt chăn, gối dành cho trẻ, sau đó phơi nắng thật khô.

Những điểm quan trọng về viêm phổi ở trẻ sơ sinh

14:57 |
Viêm phổi luôn là “cơn ác mộng” với tất cả các bà mẹ đang chăm trẻ sơ sinh. Trẻ nhỏ từ 0-3 tháng tuổi khả năng miễn dịch còn rất thấp, hệ hô hấp còn non yếu nên nếu đã bị viêm phổi thì sau này sẽ rất dễ tái phát.



Khi trẻ ho, mẹ không nên tự mua thuốc giảm ho cho bé vì phản xạ ho sẽ không thể thực hiện, trẻ không tống được chất đờm trong phế quản ra ngoài sẽ dễ bị bệnh nặng hơn

Bé sơ sinh thở bụng, chủ yếu qua đường mũi và thở không đều, thường có những cơn ngưng thở sinh lý dưới 10 giây là do phổi chưa giãn nở tốt, các phế nang chưa trưởng thành, cấu tạo hệ hô hấp chưa hoàn chỉnh. Vì vậy, ông cha ta có tục lệ ăn đầy tháng khi trẻ đầy một tháng tuổi, tức là mừng cho bộ máy hô hấp của bé sơ sinh có khả năng thích nghi được với môi trường sống bên ngoài.

Không chỉ riêng mùa đông mà ngay cả mùa hè, thu trẻ cũng rất dễ mắc viêm phổi do nằm quạt, điều hoà không đúng cách hoặc do bị nhiễm lạnh từ nhiều nguyên nhân khác nhau. trẻ sơ sinh bị nhiễm viêm phổi nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Do đó, cha mẹ cần biết một số kiến thức không thể quên về bệnh viêm phổi ở trẻ sơ sinh.

Những sai lầm khi chăm con dẫn đến viêm phổi


Loại trừ những nguyên nhân như khi người mẹ mang thai hoặc trong quá trình sinh để bị nhiễm khuẩn dẫn đến trẻ sinh ra mắc virus đường hô hấp, cũng còn nhiều nguyên nhân khác đến từ những bất cẩn trong việc chăm sóc trẻ sơ sinh khiến bé bị viêm phổi:

1.  Nhiều bà nhiều mẹ thường quan niệm trẻ sơ sinh dễ bị nhiễm lạnh nên cần ủ ấm trong mùa đông. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết, nếu ủ ấm quá, trẻ ra mồ hôi lại dễ bị nhiễm lạnh. trẻ sơ sinh thoát nhiệt qua da, nếu ủ bé kỹ quá, mồ hôi thoát ra không được bay đi mà sẽ bị thấm ngược vào phổi, gây bệnh về hô hấp.


2.  Trời nóng, nhiều cha mẹ bật điều hoà hoặc quạt liên tục, thậm chí vô tư để luồng gió chiếu thẳng vào người con cũng là nguyên nhân khiến bé bị nhiễm lạnh, dễ dẫn đến viêm phổi.


3.  Thời gian sáng sớm và tối muộn là hai thời điểm lạnh nhất trong ngày, cha mẹ nên hạn chế đưa trẻ sơ sinh ra ngoài trời. Nếu cho bé ra mà không có đầy đủ quần áo, mũ con cũng sẽ dễ nhiễm bệnh.


4.  Trong đêm, nếu được ủ ấm, trẻ có thể cảm thấy nóng bức nên đạp tung chăn ra và sau đó lại dễ nhiễm lạnh. Điều này rất nguy hiểm. Nếu cha mẹ không kịp thời đắp lại chăn cho con nhiều lần trong đêm, em bé dễ dàng viêm đường hô hấp, thậm chí viêm phổi.


 Triệu chứng của viêm phổi


Theo Viện Y tế quốc gia Hoa Kỳ, dưới đây là những triệu chứng của bệnh viêm phổi thường gặp ở trẻ sơ sinh, cần được chăm sóc y tế: trẻ sơ sinh có ho hoặc thở như ngáy, sốt, khó thở, nôn trớ, tiêu chảy và quấy khóc. Tuy nhiên, với kinh nghiệm thực tiễn của các thầy thuốc nhi khoa Việt Nam, nhận biết một trẻ sơ sinh khi bị viêm phổi có biểu hiện ban đầu là trẻ dễ quấy khóc, đây là kết quả của sự nhiễm trùng, khiến trẻ cảm thấy khó chịu, dẫn đến trẻ quấy khóc hoặc khó ngủ.

Ngoài ra, trẻ còn một số biểu hiện khác như

- Thở nhanh: Nhịp thở ≥ 60 lần/phút đối với trẻ < 2 tháng tuổi và

Nhịp thở ≥ 50lần/phút đối với trẻ 2 tháng - 12 tháng tuổi và

Nhịp thở ≥ 40lần/phút đối với trẻ 1-5 tuổi .

- Sốt cao

- Khò khè

- Chán ăn.


 Biến chứng của viêm phổi


Nếu trẻ bị viêm phổi không được điều trị kịp thời, hoặc chăm sóc không đúng cách, có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm chẳng như nhiễm trùng huyết, viêm màng não, suy tim, bại não, vv, gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Vì vậy, cha mẹ đừng chủ quan với những biểu hiện của viêm phổi khi thấy con ho, khò khè hay thở nhanh.

 Cách phòng tránh, chăm sóc trẻ bị viêm phổi


Đầu tiên, cha mẹ nên luôn luôn chú ý để giúp trẻ em duy trì nhiệt độ cơ thể bình thường, sắp xếp nhiệt độ trong nhà, kiểm soát độ dày của quần áo, không để cho trẻ cảm thấy nóng và lạnh, điều này là vô cùng quan trong để giúp con phòng tránh bệnh tật.

Khi trẻ ho, mẹ không nên tự mua thuốc giảm ho cho bé vì phản xạ ho sẽ không thể thực hiện, trẻ không tống được chất đờm trong phế quản ra ngoài sẽ dễ bị bệnh nặng hơn. Chỉ nên cho trẻ uống các loại thuốc ho được bào chế từ dược liệu đơn giản, phù hợp để làm thông thoáng đường thở (luôn hỏi bác sỹ trước khi cho trẻ uống).

Khi trẻ sổ mũi mà còn quá bé, không tự hỉ mũi được, mẹ nên làm thông thoáng mũi bằng cách nhỏ dung dịch nước muối loãng và hút, rửa mũi bằng dụng cụ hút mũi thường xuyên. Tránh để nước mũi không thoát được, chảy xuống họng sẽ càng gây ho, đờm.

Ngoài ra, khi một đứa trẻ có trường hợp sốt, chúng ta phải đưa họ đến bệnh viện để điều trị, không trì hoãn điều trị. Đối với trẻ em bị viêm phổi, các bác sĩ thường sẽ sử dụng kháng sinh nhất định. Tất nhiên, đối với bệnh lý khác nhau và bệnh nhân, phương pháp này sẽ khác nhau. Không nên quá bài xích kháng sinh, sẽ khiến con gặp nguy hiểm.

Theo làm cha mẹ

Bệnh viêm phổi và cách nhận biết viêm phổi ở trẻ sơ sinh

14:57 |
Viêm phổi ở trẻ sơ sinh là loại bệnh nặng có thể gây tử vong cho trẻ, nhất là trẻ sinh non, nhẹ cân nếu không được điều trị kịp thời. Tuy nhiên triệu chứng viêm phổi ở trẻ sơ sinh thường không rõ ràng nên nhiều trường hợp đến cơ sở y tế khi bệnh đã nặng. Do đó cha mẹ cần hết sức chú ý những biểu hiện viêm đường hô hấp như ho, bỏ bú, quấy khóc... đưa trẻ đi khám ngay để điều trị kịp thời.


Vì sao trẻ sơ sinh dễ bị viêm phổi?


Nguyên nhân gây viêm phổi ở trẻ sơ sinh thường do các loại vi khuẩn như Listeria, Coli, các vi khuẩn Gram âm. Nhiễm khuẩn phổi có thể xảy ra từ trước, trong hoặc sau khi đẻ, liên quan tới thời gian vỡ ối trước khi đẻ. Trẻ cũng có thể bị bệnh ngay trong khi đẻ do hít phải nước ối, phân su đã bị nhiễm khuẩn hoặc dịch tiết ở đường sinh dục của người mẹ.

Ngoài ra, ở những trẻ đẻ non, trẻ thiếu cân do các phản xạ đường thực quản còn chưa hoàn thiện, vận động cơ chưa đều đặn nên thường xuyên bị trào ngược thực quản dạ dày. Khi trẻ bú mẹ thường hay bị nôn, trớ, nếu sữa bị hít nhầm vào khí quản, sẽ gây ra các triệu chứng như thở gấp, hụt hơi, tím tái mặt, lượng sữa hít vào càng nhiều càng có khả năng gây viêm phổi. Một số bệnh như viêm khoang miệng, viêm da, viêm dây rốn… đều có thể dẫn tới viêm phổi sơ sinh.

Cần phát hiện sớm các dấu hiệu ban đầu


Bệnh thường xuất hiện sớm, sau đẻ từ 12 giờ đến vài ngày, diễn tiến nhanh và nặng. Không giống viêm phổi ở trẻ lớn với những biểu hiện điển hình là sốt cao, ho nhiều, nghe lưng có thể thấy tiếng “rít”. Với trẻ sơ sinh do đường hô hấp chưa phát triển đầy đủ nên triệu chứng lâm sàng thường không rõ ràng dễ bị bỏ qua.

Triệu chứng viêm phổi ở trẻ sơ sinh ban đầu thường có các dấu hiệu như: Bú kém hoặc bỏ bú; Sốt trên 37,5oC hoặc hạ thân nhiệt; Thở nhanh trên 60 lần trong 1 phút hoặc khó thở. Khi có triệu chứng rõ ràng thì bệnh đã nặng: Trẻ sốt hoặc hạ thân nhiệt, li bì, đáp ứng kém với kích thích, bú kém hoặc bỏ bú, nôn nhiều, chướng bụng, khó thở, rút lõm lồng ngừng, tím tái... Do đó, cha mẹ hoặc người thân cần chú ý tình trạng của trẻ để phát hiện sớm các dấu hiệu ban đầu khi trẻ có biểu hiện sốt bỏ bú, thở nhanh... phải đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế để được khám và điều trị kịp thời tránh biến chứng viêm phổi nặng.

Phòng bệnh như thế nào?


Trong quá trình mang thai các thai phụ phải đi kiểm tra thai định kỳ để phát hiện và can thiệp kịp thời khi xảy ra những bất thường của thai nhi; Sinh con tại cơ sở y tế để đảm bảo an toàn cho sản phụ và trẻ sơ sinh; Cần chăm sóc tốt cho bà mẹ và trẻ sau khi sinh; Cho trẻ sơ sinh bú sữa mẹ hoàn toàn, đúng cách để tăng sức đề kháng cho trẻ; Giữ vệ sinh cho trẻ, người chăm sóc phải rửa tay bằng xà phòng trước và sau khi chăm sóc trẻ để trẻ không bị lây nhiễm vi khuẩn; Dụng cụ để chăm sóc trẻ như cốc, thìa, chăn, áo, tã... phải sạch, khô, vô trùng, tránh không cho tiếp xúc với các nguồn lây bệnh

Viêm phổi ở trẻ sơ sinh là một bệnh rất dễ gặp nếu cha mẹ không biết cách phòng tránh tốt. trẻ sơ sinh rất dễ bị tử vong nếu không được phát hiện và điều trị sớm. Nhận biết sớm viêm phổi ở trẻ sơ sinh để biết cách chữa trị và chăm sóc trẻ được tốt hơn.

Nguyên nhân trẻ sơ sinh bị viêm phổi


Hầu hết trẻ sơ sinh bị viêm phổi là do các loại vi khuẩn như Listeria, Coli, các vi khuẩn Gram âm. trẻ sơ sinh còn có nguy cơ bị nhiễm khuẩn phổi trước, trong và sau khi chào đời là do thời gian vỡ ối của mẹ.

Một trong những nguyên nhân khiến trẻ sơ sinh bị viêm phổi là do hít phải nước ối, phân su đã bị nhiễm khuẩn hoặc dịch tiết ở đường sinh dục của người mẹ trong lúc trẻ chuẩn bị chào đời.

Ngoài ra,với nhiều trẻ đẻ non, trẻ thiếu cân do các phản xạ đường thực quản còn chưa hoàn thiện, vận động cơ chưa đều đặn nên thường xuyên bị trào ngược thực quản dạ dày. Khi trẻ bú mẹ thường hay bị nôn, trớ, nếu sữa bị hít nhầm vào khí quản, sẽ gây ra các triệu chứng như thở gấp, hụt hơi, tím tái mặt, lượng sữa hít vào càng nhiều càng có khả năng gây viêm phổi. Một số bệnh như viêm khoang miệng, viêm da, viêm dây rốn… đều có thể dẫn tới viêm phổi sơ sinh.

 Nhận biết dấu hiệu viêm phổi ở trẻ sơ sinh


Vì viêm phổi ở trẻ sơ sinh là một bệnh rất dễ gặp và biến chứng của bệnh thường khó lường nên cha mẹ cần biết cách nhận biết và phát hiện sớm ra bệnh.

Dưới đây là những dấu hiệu chính của bệnh:

Trẻ thở nhanh và thở gấp , nguyên nhân điều này là do khi trẻ bị viêm phổi, phổi của trẻ sẽ mất tính mềm mại và không thể giãn nở dễ dàng khi trẻ hít thở mà hậu quả là trẻ có thể bị thiếu oxy. Vì vậy trẻ buộc phải thở nhanh hơn dể bù đắp lại sự thiếu hụt này. Đây được coi là một trong những dấu hiệu chính và xuất hiện sớm nhất khi trẻ bị viêm phổi.
Thêm nữa, dấu hiệu này cũng rất dễ phát hiện bằng cách lắng nghe và đếm nhịp thở của trẻ trong trọn một phút để xem trẻ có thở nhanh hay không.

Trẻ thở nhanh là khi:

Nhịp thở từ 60 lần/phút trở lên ở trẻ dưới 2 tháng.
Nhịp thở từ 50 lần/phút trở lên ở trẻ từ 2 – 11 tháng.
Nhịp thở từ 40 lần/phút trở lên ở trẻ từ 12 tháng – 5 tuổi.

Khi đó trẻ đã có triệu chứng viêm phổi, cần được đưa đến cơ sở y tế thăm khám và điều trị ngay.

Trẻ bị rút lõm lồng ngực: Khi bạn có thể nhận thấy phần dưới lồng ngực (1/3 dưới) lõm vào khi trẻ hít vào thì trẻ đã chuyển sang giai đoạn viêm phổi nặng.

Tuy nhiên, cần phân biệt những triệu chứng khác với hiện tượng rút lõm lồng ngực. Nếu trẻ chỉ phần mềm giữa xương sườn hoặc vùng trên xương đòn rút lõm thì không phải là rút lõm lồng ngực. Trẻ dưới 2 tháng tuổi, chỉ rút lõm lồng ngực nhẹ thì chưa có giá trị phân loại vì lồng ngực ở trẻ còn mềm, khi thở bình thường hơi cũng có thể rút lõm. Trường hợp thấy rõ lõm sâu và dễ nhìn thấy, chắc chắn trẻ bị viêm phổi.

Ngoài ra, trẻ sơ sinh còn có thể bị sốt cao, thở khò khè và các biểu hiện như phập phồng cánh mũi, thở rên, bú kém, kích thích… có thể thay đổi phụ thuộc và tuổi trẻ và độ nặng của bệnh.

Vì thế, khi bạn bắt gặp bất kỳ một dấu hiệu khác lạ nào ở trẻ, bạn cần đưa trẻ sớm gặp Bác Sĩ để được thăm khám và có biện pháp điều trị kịp thời trước khi bệnh chuyển sang giai đoạn nặng hơn.

Theo làm cha mẹ

Bệnh suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh

14:43 |
Bệnh đường hô hấp cấp là một trong những bệnh phổ biến thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, đặc biệt là trong những ngày nắng nóng và hay mưa. Đây cũng là bệnh có thể khiến bé phải đến phòng cấp cứu đấy nhé.


Tại sao trẻ bị bệnh đường hô hấp cấp?


Thủ phạm gây ra bệnh đường hô hấp cấp là virus hợp bào hô hấp RSV. Bệnh đường hô hấp cấp có những triệu chứng giống chứng cảm cúm trong mùa lạnh. Bản thân nó không phải là loại virus nguy hiểm nhưng có thể dẫn đến nhiễm trùng tai, viêm tiểu phế quản, viêm phổi, hoặc sau đó là sự phát triển của bệnh hen suyễn, hay những vấn đề đường hô hấp khác.

Hầu hết trẻ nhỏ gặp phải vấn đề này trước 2 tuổi, tuy nhiên nó đặc biệt nguy hiểm cho trẻ dưới 6 tháng tuổi, trẻ có vấn đề sức khỏe bẩm sinh, và trẻ sinh thiếu tháng vì những bé này có hệ miễn dịch yếu hơn.


Làm thế nào để biết bé bị bệnh đường hô hấp cấp?


Ban đầu bé có thể bị cảm nhẹ, nhưng sau vài ngày, cơn ho của bé nặng hơn và hơi thở khó nhọc. Điều này là do virus đã lây nhiễm tới các tiểu phế quản, khiến chúng bị sưng, tiết ra nhiều dịch nhầy làm đầy đường khí và gây khó thở.

Những dấu hiệu cho thấy có thể bé đã bị viêm nhiễm nghiêm trọng gồm: lỗ mũi nở rộng, lồng ngực phồng to khi thở, căng cơ bụng, rên khi thở, hơi thở khò khè, thở gấp hơn 60 lần/ phút, môi hoặc móng tay hơi xanh, và bé có biểu hiện bất thường khi bú.

Nên làm gì khi nghi ngờ bé bị bệnh hô hấp cấp?


Ba mẹ nên đưa bé đi khám bác sĩ để kiểm tra hơi thở và ôxy của bé. Nếu bé quả thực bị bệnh hô hấp cấp, có thể bác sĩ sẽ cho bé thuốc giãn phế quản dạng hít, giúp bé dễ thở hơn. Thuốc kháng sinh sẽ không có tác dụng trên virus hợp bào hô hấp nhưng bạn có thể giúp giảm nhẹ các triệu chứng của bé tại nhà bằng cách cho bé uống nhiều nước và tránh xa khói và khói thuốc vì có thể khiến việc thở của bé khó khăn hơn.



Bạn nên cho bé bú thường xuyên hơn do bé khó có thể thở và bú cùng lúc. Một số cách khác giúp bé dễ thở là dùng nước muối sinh lý nhỏ mũi và hút chất nhầy trong mũi bé bằng ống hút mũi hình tròn, đặt máy phun sương mát trong phòng bé, đặt đầu bé nâng lên một chút khi ngủ. Có thể dùng một chiếc khăn kê dưới nệm nhưng không kê gối dưới đầu bé.

Bạn có thể cho bé dùng thuốc hạ sốt acetaminophen nếu cần được bác sĩ đồng ý. Với những bé sinh thiếu tháng hoặc bé có bệnh tim hoặc phổi, một cách giúp bảo vệ bé khỏi virus là cho bé tiêm ngừa virus cúm trước khi vào mùa cúm.


Suy hô hấp là hội chứng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng hô hấp của trẻ, do đó việc đầu tiên khi điều trị bệnh là thông đường thở cho trẻ, nhất là đối với trẻ suy thở do sặc sữa hoặc sặc đờm dãi.

Suy hô hấp là một bệnh có tính chất không hề đơn giản. Hội chứng này có thể điều trị dứt điểm mà không để lại biến chứng cho trẻ nếu cha mẹ phát hiện ra bệnh và xử lý đúng khi trẻ phát bệnh. Ngược lại nếu không phát hiện sớm và điều trị đúng cách sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng cho trẻ.

Điều trị bệnh suy hô hấp ở trẻ sơ sinh


Nguyên tắc chung trong quá trình điều trị suy hô hấp ở trẻ là dùng surfactant thay thế, đảm bảo tốt thông khí và oxy máu, duy trì khả năng chuyên chở oxy, có thể hỗ trợ cho trẻ thở bằng bình ôxy.


Ngoài ra, cần cung cấp đủ năng lượng, điều trị các nguyên nhân gây ra suy hô hấp, áp dụng các phương pháp hỗ trợ như bảo vệ thân nhiệt, dinh dưỡng, hỗ trợ tuần hoàn và điều trị nhiễm trùng cho trẻ.

Suy hô hấp là hội chứng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng hô hấp của trẻ, do đó việc đầu tiên khi điều trị bệnh là thông đường thở cho trẻ, nhất là đối với trẻ suy thở do sặc sữa hoặc sặc đờm dãi.

Bạn có thể sử dụng tay quấn vải hoặc các dụng cụ y tế chuyên dụng đề lau khô sạch miệng và họng của trẻ. Nhanh chóng hút mũi cho trẻ. Do trẻ vừa mới sinh còn bé và sức khỏe yếu, sức đề kháng chưa tốt, đặc biệt là trẻ sinh non. Vì vậy tất cả các hành động phải làm nhanh và nhẹ nhàng, tránh làm tổn thương niêm mạc miệng của trẻ.

Nếu trẻ đã rơi vào trạng thái hôn mê, cần hút đờm nhớt, ngửa đầu, nâng cằm trẻ, đặt ống thông miệng hầu.

Trong điều trị các triệu chứng, bác sĩ thường dùng thủ thuật Heimlich (là thủ thuật dùng để cấp cứu khi có dị vật lọt vào choán gần hết diện tích của đường thở) với trẻ trên 2 tuổi, ấn ngực vỗ lưng với trẻ dưới 2 tuổi. Ngoài ra có thể sử dụng khí dung Adrenaline 1%, Dexamethasone để điều trị giúp lưu thông khí tốt hơn.

Khi trẻ bị suy hô hấp, lượng oxy bị thiếu hụt nghiêm trọng do đó cần kịp thời cung cấp oxy cho trẻ. Khi trẻ có các biểu hiện như tím tái hoặc thở co lõm ngực nặng, thở nhanh trên 70 lần/phút bạn có thể cung cấp Oxygen cannula 30-40 % cho trẻ với liều lượng là 0.5-3 l/ph, hoặc 1-6 l/ph tùy thuộc vào độ tuổi và chỉ định của bác sĩ.


Nếu bệnh nhân ngừng thở hoặc thở không tốt có thể sử dụng đến bóng Mask ở nội khí quản giúp bệnh nhân thở tốt hơn. Sử dụng tới bình oxy để hỗ trợ thở cho trẻ suy hô hấp, thở bằng phương pháp CPAP nếu trẻ có một số bệnh lý về phổi như viêm phổi, phù nặng, bệnh viêm màng trong...

Chú ý nếu trẻ bị số cao trên 38 độ C cần phải giảm lượng tiêu thụ oxygen để tránh phát một số bệnh liên quan tới não, thần kinh và tim mạch. Duy trì cung lượng tim đầy đủ bằng dịch truyền, thuốc tăng co bóp tim…

Phòng ngừa viêm nhiễm trùng cho trẻ khi mắc suy hô hấp cần đặc biệt quan tâm. Nguyên nhân là do nếu trẻ mắc viêm nhiễm trong quá trình điều trị, hiệu quả điều trị sẽ không cao, trẻ dễ có khả năng bị tái phát bệnh và điều trị lần sau sẽ vô cùng khó khăn.

Do đó các dụng cụ hô hấp, các dụng cụ khác như hút đờm, nội khí quản phải được vô trùng tuyệt đối. Cha mẹ nên chú ý khi trẻ có các triệu chứng suy hô hấp cần đưa trẻ tới ngay bệnh viện để được thăm khám và cấp cứu kịp thời.

Theo Làm cha mẹ

Chuẩn đoán và điều trị bệnh tiêu chảy ở trẻ sơ sinh

11:14 |
Trẻ nhỏ bị tiêu chảy là điều hết sức lo lắng của nhiều những ông bố, bà mẹ đang nuôi con nhỏ, nhất là đối với trẻ sơ sinh. Ở độ tuổi này, hệ tiêu hoá của bé còn chưa kịp thích nghi với những loại thực phẩm được cung cấp thông qua nguồn sữa mẹ hoặc trực tiếp cho bé thông qua các loại sữa ( hay còn gọi là sữa ngoài). 

Nhưng nếu bé bị tiêu chảy liên tục, có các dấu hiệu bất thường như mất nước, sốt, nôn ói… thì cần đem trẻ đến gặp bác sĩ ngay lập tức.

Trẻ sơ sinh rất dễ mắc tiêu chảy do hệ tiêu hóa còn yếu


Trẻ sơ sinh đi ngoài quá nhiều là do đâu?

Trẻ sơ sinh hay mắc chứng tiêu chảy do hệ tiêu hoá của bé con non nớt, dễ phản ứng với những thay đổi từ thức ăn. Đặc biệt, ở độ tuổi này bé thường chủ yếu bú mẹ hoặc uống sữa nên phân của bé thường có dạng lỏng, thậm chí nhiều khi còn sủi bọt, có chất nhầy.

Phân của trẻ bú mẹ thường có màu vàng, sền sệt có mùi chua. Phân của trẻ dùng thức ăn nhân tạo thường có màu vàng nâu như đất sét hoặc có màu xanh, mùi thối, rắn hơn phân của trẻ bú mẹ, đôi khi thành khuôn.


Ở mỗi bé có tần số đi ngoài khác nhau, có trẻ 1 lần/ngày, trẻ 3 – 4 lần, có trẻ 5 – 7 lần nhưng nếu trẻ không sốt, bú bình thường, ngủ bình thường, vẫn lên cân thì cha mẹ hoàn toàn yên tâm. Không cần can thiệp xét nghiệm, không cần uống men tiêu hóa mà chính đường tiêu hóa của trẻ sẽ tự điều chỉnh dần. Bởi việc uống men, kháng sinh, hay thuốc cam như dân gian hay dùng vẫn không thể giảm được số lần đi ngoài của trẻ.

Dấu hiệu cần đến gặp bác sĩ

- Bé đi ngoài liên tục, kèm theo đó là dấu hiệu mất nước.
- Trẻ khóc vì đau khi có ai đó sờ nắn bụng.
- Trẻ có triệu chứng uể oải, bú kém, mệt mỏi hoặc bé bú quá nhiều nhưng không hấp thu được dưỡng chất.
- Trẻ bị dị ứng với sữa.
- Da bé bị nhăn, hai mắt hơi lõm.
- Trẻ bị rối loạn tiêu hoá hay nhiễm trùng đường ruột.
- Sử dụng nhiều loại thức ăn nhuận tràng hoặc thuốc xổ trong giai đoạn cho con bú.

Hậu quả của tiêu chảy ở trẻ nhỏ

Trẻ bị tiêu chảy dễ dẫn đến tình trạng mất nước và thiếu nước nhanh chóng. Hiện tượng này cực kỳ nguy hiểm, nhất là chứng tiêu chảy lại kèm theo sốt, nôn ói.

Hậu quả của bệnh thường dẫn đến nguy cơ suy dinh dưỡng và dễ tử vong.

Bệnh tiêu chảy cấp nếu không được điều trị đúng cách có thể gây ra rối loạn tiêu hoá dẫn đến suy dinh dưỡng, giảm miễn dịch, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng, phát triển của trẻ, thậm chí có thể gây tử vong.

Biện pháp phòng ngừa tiêu chảy ở trẻ sơ sinh

- Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu, cho ăn thêm sau 6 tháng. Bởi vì sữa mẹ vừa bảo đảm vệ sinh, lại đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng, có chứa kháng thể tăng cường miễn dịch mà chi phí lại thấp.
- Cho trẻ ăn dặm sau 6 tháng với thức ăn đủ dinh dưỡng.
- Sử dụng nguồn nước sạch cho ăn uống và vệ sinh.
- Rửa tay bằng xà phòng trước khi chăm sóc hoặc chế biến thức ăn cho trẻ, và sau khi đi ngoài, thay tã cho trẻ.
- Sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh.
- Cần tiêm phòng sởi cho trẻ vì virus sởi có khả năng gây tiêu chảy cho người bệnh sau khi các nốt phát ban đã lặn đi. Ngoài ra, nên kết hợp tiêm phòng Rotavirus cho trẻ vì đây là một loại virus gây nên tình trạng tiêu chảy cấp ở trẻ em.
- Đến gặp bác sĩ nếu thấy các dấu hiệu bất thường về đường tiêu hoá ở trẻ nhỏ.



Lời khuyên từ chuyên gia:

Bác sĩ chuyên gia tư vấn sức khoẻ của tổng đài Ánh Dương chia sẻ rằng: “ Đối với người lớn việc đi đại tiện 1 lần/ ngày là điều bình thường, còn từ 3 lần trở lên với các triệu chứng như phân lỏng, dạng nước, kèm đau bụng… thì được coi là tiêu chảy. Còn với trẻ sơ sinh thì hoàn toàn khác. Ở độ tuổi này bé đang bú mẹ, không ăn thêm thức ăn nào khác thì có cháu đi một ngày 5-7 lần, phân đôi khi có nước, hoa cà, hoa cải, bọt cũng hoàn toàn bình thường, không phải bị tiêu chảy. Nhưng cũng cần hết sức lưu ý theo dõi khi trẻ có các triệu chứng bất thường khác như nôn ói, đầy bụng, khó tiêu, mất nước , chậm lớn… cần đưa trẻ đến gặp bác sĩ ngay để có hướng điều trị kịp thời, tránh những nguy cơ không đáng có về sau”.

 Đặc biệt vào thời điểm giao mùa, nắng nóng bất thường các bà mẹ hết sức lưu ý đến vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh cho bé cũng như môi trường sống để hạn chế nguy cơ ảnh hưởng đến "hệ tiêu hóa" của trẻ.

Tiêu chảy là một trong những bệnh gây tử vong cao ở trẻ em, vì vậy cần phải phát hiện và chữa tiêu chảy cho trẻ sơ sinh kịp thời, đúng cách để tránh trường hợp xấu nhất xảy ra

Một thức tế cho thấy, hầu hết các bậc làm cha mẹ đều chưa hiểu hết về chứng bệnh này. Vì vậy để chữa tiêu chảy cho trẻ sơ sinh nhanh chóng, các bậc làm cha mẹ cần nhận biết triệu chứng của bệnh, nguyên nhân gây bệnh để có phương pháp điều trị kịp thời.

Dấu hiệu nhận biết và nguyên nhân gây ra chứng tiêu chảy ở trẻ sơ sinh

Trẻ đi ngoài phân lỏng hơn bình thường, đi nhiều lần trong ngày (trên 3 lần một ngày)

Nguyên nhân gây tiêu chảy ở trẻ sơ sinh như: Nhiễm Virus, nhiễm khuẩn, do dùng thuốc (thường gặp là tiêu chảy do trẻ uống kháng sinh), do dị ứng thức ăn, do thay đổi chế độ ăn đột ngột, do ngộ độc.

Những phương pháp chữa tiêu chảy cho trẻ sơ sinh hiệu quả

Sử dụng lá ổi



Đây là một phương pháp dân gian giúp chữa tiêu chảy cho trẻ sơ sinh nhanh chóng đã được áp dụng từ nhiều đời nay.

Lá ổi rửa sạch đem ngâm nước muối khoảng 20 phút. Sau đó, cho lá ổi vào nấu với nước, đun sôi khoảng 30 phút rồi nêm một chút muối. Cuối cùng, lọc lấy nước cho bé uống. Nên cho bé uống liên tục từ 1-2 ngày.

Gạo rang



Khoảng 10g gạo, 15g lá ngải cứu khô, đường, tỏi.

Đun sôi kĩ ( khoảng 15 phút) rồi nhấc xuống để hơi nguội và cho trẻ uống. Mỗi ngày chỉ cần cho bé uống một lần, sau hai ngày sẽ thấy hiệu quả.

Gừng tươi



Nguyên liệu: 100g gừng tươi, 5g lá chè khô, dấm gạo.

Cách làm: cho gừng tươi và lá trà xanh vào đun chung với nhau rồi đổ thêm 15g dấm gạo. Chia đều cho bé uống 2 lần/ngày.


Tuy nhiên, nếu trong 2 ngày mà tình trạng bệnh không giảm, xuất hiện các dấu hiệu như phân bé có lẫn máu màu đỏ tươi, hồng, hoặc nâu đen lẫn nhầy như mũi, bụng đau khi sờ ấn, nôn ói nhiều, bỏ ăn, da nhăn, mắt lõm, khó không có nước mắt, tiểu ít, bé lừ đừ,…bạn cần đưa trẻ đến bệnh viện để được các chuyên gia thăm khám có phương pháp điều trị kịp thời.

Bên cạnh phương pháp chữa bệnh tiêu chảy cho trẻ sơ sinh, các bậc làm cha mẹ cũng cần học cách chăm sóc trẻ đúng cách, phòng chống bệnh:

Bà mẹ đang trong giai đoạn cho con bú cần ăn thực phẩm rửa sạch và nấu chín, rõ nguồn gốc, sử dụng nguồn nước sạch, vệ sinh tay khi chăm sovcs bé nhất là lúc cho bé ăn, không co bé ngậm tay hoặc ngậm đồ chơi, không để bí tiếp xúc với người đang mắc bệnh tiêu chảy, không sử dụng kháng sinh bừa bãi.

Những sai lầm cần tránh khi chăm sóc trẻ sơ sinh bị tiêu chảy:


Không cho trẻ uống nước vì sợ uống vào lại tiêu chảy nhiều. Điều này sẽ làm bé càng thiếu nước nặng, dẫn đến rối loạn nước điện giải, có thể đe dọa đến tính mạng.

Cho bé ăn cháo trắng với muối, không cho bú mẹ… làm bé thiếu chất, nhanh kiệt sức và dẫn đến suy dinh dưỡng.

Thay vì đưa bé đi khám tại các chuyên khoa thì các bậc làm cha mẹ có thói quen tự mua thuốc cho bé uống, vừa không chữa được bệnh lại dễ dẫn đến ngộ độc thuốc và kéo dài ngày bệnh, thậm chí gây tử vong.

Bệnh tiêu chảy và những rối loạn tiêu hóa thường gặp ở trẻ sơ sinh

10:53 |
Bệnh tiêu chảy ở trẻ sơ sinh là mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ mới sinh. Vì trẻ sơ sinh trong 6 tháng đầu phụ thuộc dinh dưỡng hoàn toàn vào sữa mẹ, vậy nên cha mẹ cần phải xác định rõ nguyên nhân tiêu chảy ở trẻ sơ sinh rồi từ đó có được cách điều trị và chăm sóc thích hợp.


Đừng vội kết luận về chứng tiêu chảy ở trẻ sơ sinh

Khi trẻ sơ sinh đi ngoài ra phân lỏng thì không hoàn toàn là trẻ đang bị tiêu chảy. Những biến đổi các yếu tố trong đường ruột sẽ mang đến 1 cơn tiêu chảy nhẹ, nhưng chỉ mang tính chất tạm thời. Nếu trẻ đi ngoài ra phân lỏng kéo dài hơn 24h thì đó mới là dấu hiệu của chứng tiêu chảy ở trẻ sơ sinh.


Nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy ở trẻ sơ sinh phần lớn do chế độ ăn của người mẹ

Chế độ ăn của người mẹ đang cho con bú ảnh hưởng đến tiêu hóa của của trẻ sơ sinh. Vì vậy chứng tiêu chảy ở trẻ sơ sinh phần lớn là do nguyên nhân này. Khi trẻ tiêu chảy, người mẹ nên xem xét lại ngay chế độ ăn của mình. Loại bỏ những thực phẩm không tốt cho sữa mẹ.


Những thay đổi đột ngột gây ra chứng tiêu chảy ở trẻ sinh sinh

Nếu bạn chuyển sang cho trẻ bú bình, điều đó có thể làm bé bị tiêu chảy. Khi hệ thống tiêu hóa của bé chưa trưởng thành, bé sẽ rất nhạy cảm với các thực phấm mới.

Nếu ngay lần đầu tiên bú bình trẻ đã bị tiêu chảy, thì bạn nên xem xét lại:

- Ngưng cho trẻ bú bỉnh cho đến khi hệ thống tiêu hóa của con trưởng thành.
- Cho trẻ bú bình theo một cách khác, với tốc độ và tần xuất chậm hơn để trẻ dần thích nghi.


Khi trẻ sơ sinh chuyển sang ăn dặm

Như đã nói ở phần trên, hệ tiêu hóa của trẻ sơ sinh chưa hoàn thiện. Vì vậy, khi trẻ sơ sinh ăn thức ăn sệt hoặc cứng hơn sữa mẹ có thể phá vỡ đường ruột của bé trong một khoảng thời gian ngắn. Hãy chú ý đến phản ứng của bé khi ăn các loại thức ăn khác nhau. Tốt nhất trong giai đoạn 6 – 7 tháng tuổi, một tuần chỉ nên ăn dặm vào cố định 1 ngày trong tuần. Sau đó dần dần tăng mật độ lên.




Những dấu hiệu khác của chứng tiêu chảy ở trẻ sơ sinh

Bệnh tiêu chảy ở trẻ sơ sinh sẽ thường đi kèm với các biểu hiện khác như: sốt, chảy nước mũi, nôn trớ.


Bệnh tiêu chảy ở trẻ sơ sinh có thể do tác dụng phụ của thuốc

Hãy xem lại những loại thuốc mà trẻ uống khi chữa các bệnh khác, kháng sinh thường gây ra chứng tiêu chảy ở trẻ sinh sinh. Nếu bệnh tiêu chảy ở trẻ sinh ngày càng lập lại nhiều lần thì phụ huynh nên xem xét ngưng sử dụng thuốc.

Chứng rối loạn tiêu hóa thường gặp ở trẻ sơ sinh

Nếu mẹ cho bé bú không đúng cách, trẻ có thể rất dễ gặp các biểu hiện rối loạn tiêu hóa như trớ sữa, tiêu chảy, táo bón, đau bụng, bú kém…Cũng có một số trường hợp trẻ sơ sinh bị rối loạn tiêu hóa do ảnh hưởng của một số bệnh lý như nhiễm trùng, kém hấp thụ, dị tật bẩm sinh …Dưới đây là kiến thức tổng quan về hiện tượng này.

Hiện tượng nôn, trớ

Nôn trớ xảy ra chủ yếu khi bé bú quá no, thời gian bú quá gần nhau hoặc khi bé được đổi loại sữa mới, do lỗ núm vú cao xu to hoặc nhỏ quá, hoặc cũng có thể là tư thế bú chưa đúng.


Ngoài ra, các dị dạng về đường tiêu hóa cũng là yếu tố nguy cơ dẫn đến nôn trớ ở trẻ sơ sinh. Trường hợp này nếu chậm xử lý trẻ rất dễ bị tử vong. Mẹ cần đưa bé đến ngay trạm y tế nếu trẻ nôn trớ kết hợp với một số trường hợp như mẹ có tiền sử bị đa ối khi mang thai, trẻ bị sùi bọt cua ngay sau sinh, trớ ra dịch màu xanh rêu, bụng chướng hoặc không đi tiêu phân su trong 48h sau sinh.



Hiện tượng tiêu chảy

Tiêu chảy xảy ra thường là do bé bú không đủ, hoặc bú nhiều quá. Người mẹ uống thuốc tẩy hoặc dùng thức ăn nhuận tràng trẻ cũng rất dễ bị tiêu chảy. Ngoài ra, các hiện tượng như nhiễm trùng, dị ứng sữa, kém hấp thu cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tiêu chảy ở trẻ sơ sinh.

Các mẹ chú ý vệ sinh bàn tay sạch, nhất là khi thay tã hoặc vệ sinh vùng kín cho bé. Nếu trẻ vừa bị tiêu chảy vừa bị sốt thì cần đưa ngay tới bác sỹ.

Táo bón ở trẻ sơ sinh

Táo bón gặp nhiều ở trẻ đang ăn sữa bột. Nguyên nhân chủ yếu do lượng sữa bú không đủ, sữa có quá nhiều protein hoặc chất béo, hoặc do sữa pha quá đặc. Ngoài ra, táo bón cũng thường xảy ra ở trẻ sinh non, sinh ngạt, suy giáp, trẻ có mẹ bị sản giật kèm hạ magiê máu, trẻ bị nứt hậu môn. Riêng các trẻ bị phình đại tràng bẩm sinh thường đi ngoài phân su muộn, sau đó bị táo bón kéo dài kèm chướng bụng.

Để giảm tình trạng táo bón cho bé, mẹ có thể thực hiện các bài tập massage bụng cho bé theo chiều kim đồng hồ, tắm nước ấm cho bé giúp đường ruột của bé hoạt động tích cực hơn. Ngoài ra, có thể thử một chút nước ép trái cây pha loãng, bổ sung nhiều chất xơ vào chế độ ăn uống của bé để giảm chứng táo bón.

Trẻ bị đau bụng

Cơn đau bụng thường xuất hiện đột ngột, có thể kéo dài hàng giờ. Khi đó, trẻ thường khóc nhiều, mặt đỏ hoặc tái, bụng chướng, chân co lên bụng, bàn tay nắm chặt. Trẻ đi tiêu xong có thể sẽ hết đau. Đau bụng ở trẻ sơ sinh có thể do trẻ bị đói, hoặc nuốt nhiều hơi khi bú, có thể là dấu hiệu của rối loạn tiêu hóa hay nhiều bệnh lý nguy hiểm. Nếu đau bụng sau khi bé đi tiêu mà vẫn không đỡ, đau bụng kéo dài , bé quấy khóc các mẹ nên cho bé tới các trung tâm y tế để được thăm khám sớm.


Viêm phổi ở trẻ sơ sinh: Dấu hiệu nhận biết và cách điều trị

15:58 |
Viêm phổi sơ sinh (VPSS) là tình trạng bệnh lý biểu hiện viêm hoặc nhiễm trùng ở nhu mô phổi, thường gặp ở giai đoạn sơ sinh. Viêm phổi ở trẻ sơ sinh là một bệnh rất dễ gặp nếu cha mẹ không biết cách phòng tránh tốt. trẻ sơ sinh rất dễ bị tử vong nếu không được phát hiện và điều trị sớm. 



Nhận biết sớm viêm phổi ở trẻ sơ sinh để biết cách chữa trị và chăm sóc trẻ được tốt hơn.


1. Nguyên nhân trẻ sơ sinh bị viêm phổi

Hầu hết trẻ sơ sinh bị viêm phổi là do các loại vi khuẩn như Listeria, Coli, các vi khuẩn Gram âm. trẻ sơ sinh còn có nguy cơ bị nhiễm khuẩn phổi trước, trong và sau khi chào đời là do thời gian vỡ ối của mẹ.

Một trong những nguyên nhân khiến trẻ sơ sinh bị viêm phổi là do hít phải nước ối, phân su đã bị nhiễm khuẩn hoặc dịch tiết ở đường sinh dục của người mẹ trong lúc trẻ chuẩn bị chào đời.

Ngoài ra,với nhiều trẻ đẻ non, trẻ thiếu cân do các phản xạ đường thực quản còn chưa hoàn thiện, vận động cơ chưa đều đặn nên thường xuyên bị trào ngược thực quản dạ dày. Khi trẻ bú mẹ thường hay bị nôn, trớ, nếu sữa bị hít nhầm vào khí quản, sẽ gây ra các triệu chứng như thở gấp, hụt hơi, tím tái mặt, lượng sữa hít vào càng nhiều càng có khả năng gây viêm phổi. Một số bệnh như viêm khoang miệng, viêm da, viêm dây rốn… đều có thể dẫn tới viêm phổi sơ sinh.

2. Dấu hiệu nhận biết viêm phổi ở trẻ sơ sinh

Vì viêm phổi ở trẻ sơ sinh là một bệnh rất dễ gặp và biến chứng của bệnh thường khó lường nên cha mẹ cần biết cách nhận biết và phát hiện sớm ra bệnh. Dưới đây là những dấu hiệu chính của bệnh:

Trẻ thở nhanh và thở gấp , nguyên nhân điều này là do khi trẻ bị viêm phổi, phổi của trẻ sẽ mất tính mềm mại và không thể giãn nở dễ dàng khi trẻ hít thở mà hậu quả là trẻ có thể bị thiếu oxy. Vì vậy trẻ buộc phải thở nhanh hơn dể bù đắp lại sự thiếu hụt này. Đây được coi là một trong những dấu hiệu chính và xuất hiện sớm nhất khi trẻ bị viêm phổi. Thêm nữa, dấu hiệu này cũng rất dễ phát hiện bằng cách lắng nghe và đếm nhịp thở của trẻ trong trọn một phút để xem trẻ có thở nhanh hay không. Trẻ thở nhanh là khi:

Nhịp thở từ 60 lần/phút trở lên ở trẻ dưới 2 tháng.
Nhịp thở từ 50 lần/phút trở lên ở trẻ từ 2 – 11 tháng.
Nhịp thở từ 40 lần/phút trở lên ở trẻ từ 12 tháng – 5 tuổi.

Khi đó trẻ đã có triệu chứng viêm phổi, cần được đưa đến cơ sở y tế thăm khám và điều trị ngay.

Trẻ bị rút lõm lồng ngực: Khi bạn có thể nhận thấy phần dưới lồng ngực (1/3 dưới) lõm vào khi trẻ hít vào thì trẻ đã chuyển sang giai đoạn viêm phổi nặng.

Tuy nhiên, cần phân biệt những triệu chứng khác với hiện tượng rút lõm lồng ngực. Nếu trẻ chỉ phần mềm giữa xương sườn hoặc vùng trên xương đòn rút lõm thì không phải là rút lõm lồng ngực. Trẻ dưới 2 tháng tuổi, chỉ rút lõm lồng ngực nhẹ thì chưa có giá trị phân loại vì lồng ngực ở trẻ còn mềm, khi thở bình thường hơi cũng có thể rút lõm. Trường hợp thấy rõ lõm sâu và dễ nhìn thấy, chắc chắn trẻ bị viêm phổi.

Ngoài ra, trẻ sơ sinh còn có thể bị sốt cao, thở khò khè và các biểu hiện như phập phồng cánh mũi, thở rên, bú kém, kích thích… có thể thay đổi phụ thuộc và tuổi trẻ và độ nặng của bệnh.

Vì thế, khi bạn bắt gặp bất kỳ một dấu hiệu khác lạ nào ở trẻ, bạn cần đưa trẻ sớm gặp Bác Sĩ để được thăm khám và có biện pháp điều trị kịp thời trước khi bệnh chuyển sang giai đoạn nặng hơn.

Viêm phổi sơ sinh được chia ra làm hai loại

Loại viêm phổi khởi phát sớm, trong vòng 1 tuần lễ đầu tiên sau sinh, và giai đoạn viêm phổi khởi phát trễ sau 1 tuần sau sinh. Hai loại khởi phát khác nhau giúp cho chúng ta định hướng được các tác nhân gây bệnh, từ đó có phương cách điều trị tích cực và hiệu quả cao, cũng như công tác dự phòng sau này cho bé, nhằm tránh không để xảy ra tái phát.

VPSS được chia ra làm hai loại: 

Loại viêm phổi khởi phát sớm, trong vòng 1 tuần lễ đầu tiên sau sinh, và giai đoạn viêm phổi khởi phát trễ sau 1 tuần sau sinh. Hai loại khởi phát khác nhau giúp cho chúng ta định hướng được các tác nhân gây bệnh, từ đó có phương cách điều trị tích cực và hiệu quả cao, cũng như công tác dự phòng sau này cho bé, nhằm tránh không để xảy ra tái phát.



Tại sao trẻ sơ sinh lại bị viêm phổi?

Phổi là cơ quan chính của hệ hô hấp, nơi trao đổi khí giữa môi trường ngoài và cơ thể. Bình thường, có một số cơ chế khác nhau bảo vệ phổi và cơ thể khỏi các tác nhân gây bệnh từ môi trường. Không khí hít vào được lọc ở mũi. Đường hô hấp dưới được bảo vệ nhờ nắp thanh quản và thanh quản. Những vật lạ xâm nhập vào đường hô hấp dưới bị tống ra ngoài nhờ phản xạ ho.

Những hạt nhỏ hơn, có thể xâm nhập sâu hơn vào khí quản bị dính vào vách khí phế quản nhờ lớp thảm nhầy trên lớp biểu mô có lông chuyển rồi được chuyển lên trên để được tống ra ngoài. Những hạt nhỏ xuống được phế nang sẽ bị xử lý bởi đại thực bào ở phế nang và cơ chế miễn dịch tại chỗ. Các hạt bị thực bào bởi các đại thực bào phế nang sẽ được vận chuyển ra khỏi phế nang bằng hệ thống bạch mạch.


Bất kỳ sự rối loạn nào về giải phẫu hay sinh lý liên quan đến cơ chế bảo vệ này đều làm phổi dễ bị nhiễm khuẩn. Viêm phổi là hiện tượng viêm nhiễm của nhu môi phổi do nhiễm khuẩn. Đây là một bệnh rất phổ biến, đứng hàng thứ hai sau bệnh tiêu hóa.

Nguyên nhân dẫn đến viêm phổi ở trẻ sơ sinh

Viêm phổi khởi phát sớm, gồm viêm phổi bẩm sinh, xảy ra do tác nhân truyền qua nhau thai trong quá trình mang thai, trong quá trình mang thai gồm: Listeria monocytogenes, lao, giang mai, Cytomegalovirus, Rubella, Parainfluenzae virus 1, 2, 3; Influenzae A và B; Adenovirus và Rhinovirus; Parainfluenzae, Influenzae. Viêm phổi xảy ra trong lúc sinh, do nhiễm trùng đi lên từ đường sinh dục, tác nhân gây bệnh thường do S. agalactae, E. coli, L. monocytogenes, S. pneumonia, H. influenza, Klebsiella, Cytomegalovirus.

Viêm phổi khởi phát trễ, xảy ra sau sinh do lây nhiễm từ môi trường xung quanh. Các tác nhân hay gặp là Staphylococci coagulase (-), S. aurerus, Klebsiella, E. coli, Pseudomonas.
Các virút cũng gây ra viêm phổi trễ như: Adenovirus, Parainfluenzae, Influenzae. Nhiễm nấm cũng có thể xảy ra khi mà trẻ dùng kháng sinh kéo dài. Ngoài ra, các tác nhân khác cũng thể gặp như: Chlamydia trachomatis, nguyên do nhiễm trùng đường sinh dục của người mẹ mà không chịu điều trị trước lúc mang thai.

Các yếu tố gây nên bệnh viêm phổi ở trẻ sơ sinh

Yếu tố nguy cơ từ mẹ: mẹ bị sốt lúc sinh, mẹ bị viêm nhiễm đường tiết niệu sinh dục. Có tình trạng ối vỡ sớm. Ối vỡ từ trên 6 - 12 giờ trước sinh, khả năng viêm phổi tỉ lệ lây nhiễm: 33%. Ối vỡ trên 12 - 24 giờ trước sinh khả năng viêm phổi với tỉ lệ lây nhiễm: 51,7%. Ối vỡ trên 24 giờ trở lên: tỉ lệ lây nhiễm 90% trẻ bị viêm phổi. Chuyển dạ kéo dài trên 18 giờ. Trong quá trình mang thai, mẹ bị các bệnh lý nhiễm trùng.

Yếu tố nguy cơ từ con: bé sinh non tháng, tuổi thai càng non tháng, khả năng mắc bệnh càng tăng. Thai nhi có bệnh lý đi kèm, được phát hiện trong lúc mang thai. Bé có tim bẩm sinh, suy giảm miễn dịch. Bé sinh ra bị ngạt, apgar đánh giá dưới 6 điểm. Bé sinh mổ. Yếu tố tác động bên ngoài từ môi trường. Bé sinh ra phải đặt nội khí quản để thở, thở máy. Bé nằm viện lâu ngày. Phòng bé nằm điều trị đông đúc, không khí chật chội.

Cách xác định bệnh viêm phổi

Biểu hiện lâm sàng của viêm phổi ở trẻ sơ sinh rất đa dạng, triệu chứng thì sơ sài rất khó phát hiện nhất là ở trẻ nhẹ cân. Có một số dấu hiệu cần lưu tâm: trẻ thường không chịu bú, mệt mỏi, quấy khóc, da xanh, sốt cao hoặc hạ thân nhiệt, khó thở. Trẻ thở nhanh trên 60 lần/phút và không đều, có hiện tượng rút lõm lồng ngực do co kéo cơ liên sườn, thở rên, nặng hơn trẻ tím tái.

Xét nghiệm máu, biểu hiện tình trạng nhiễm trùng, như công thức máu, bạch cầu tăng cao, thiếu máu, tiểu cầu giảm, CRP tăng cao, tốc độ máu lắng tăng. Khí máu động mạch thay đổi. Chụp X-quang phổi, có hình ảnh thâm nhiễm nhu mô phổi, hình ảnh lưới hạt, mờ toàn bộ thùy và phân thùy phổi. Ta có thể xét nghiệm tìm các nguyên nhân gây VPSS bằng cấy đàm, phết họng. Xét nghiệm liên quan như tìm giang mai, CMV, Rubella, Chlamydia…

Để xác định VPSS khi mà có dấu hiệu nhiễm trùng, triệu chứng hô hấp và điển hình có hình ảnh tổn thương nhu mô phổi trên phim phổi.


Quan điểm mới trong điều trị viêm phổi

Hiện nay trong quan điểm điều trị VPSS, hỗ trợ hô hấp tích cực, bằng cách thông đường thở cho trẻ, cung cấp oxy. Điều trị kháng sinh liều cao. Tránh hạ thân nhiệt. Cung cấp dinh dưỡng đầy đủ cho trẻ và điều trị biến chứng. Giúp cho trẻ điều trị hiệu quả hơn và tránh biến chứng.

Điều trị hỗ trợ hô hấp tích cực: thông đường thở, giải quyết nguyên nhân gây tắc, bằng cách hút đàm nhớt. Cung cấp oxy, luôn luôn giữ cho trẻ nồng độ SpO2 trung bình 89 - 95%, bằng cách cho trẻ thở qua ống thông 2 mũi, thở qua mặt nạ. Trong một số các trường hợp nặng, trẻ non tháng, trẻ không tự thở được phải thở máy hỗ trợ. Vật lý trị liệu, giúp trẻ tống đàm ra bằng cách mát-xa vùng lưng cho trẻ.

Trong VPSS, bệnh cảnh có thể diễn tiến nhanh và nặng, do đó cần thiết phải dùng kháng sinh liều cao, toàn thân bằng đường tiêm tĩnh mạch, thời gian dùng trung bình 7 - 14 ngày. Thuốc kháng sinh có thể phối hợp như sau: Ampicillin + Gentamycin hoặc Amkacin. Ampicillin + Cefotaxim có thể phối hợp thêm Amkacin, nếu tiên lượng nặng. Cần theo dõi sát tình trạng diễn biến của trẻ, một khi không đáp ứng với kháng sinh, cần thiết đổi kháng sinh: Cefepim + Amkacin, các loại kháng sinh thế hệ mới.

Trong quá trình điều trị: luôn luôn giữ ấm cho trẻ, tránh không để xảy ra hạ thân nhiệt; trong trường hợp sốt cao, cần lau mát cho trẻ.

Cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, đầy đủ chất điện giải bằng dịch truyền, cho trẻ bú sữa mẹ, tránh không để xảy ra hạ đường huyết, hạ canxi huyết. Điều chỉnh cân bằng kiềm toan, điều trị trào ngược dạ dày thực quản đối với những trẻ viêm phổi hít.

Điều trị cho trẻ những biến chứng có thể xảy ra: tràn khí màng phổi nhiều, đặt dẫn lưu màng phổi để giải áp. Trong trường hợp xẹp phổi, cần vật lý trị liệu hỗ trợ hoặc thở máy để duy trì hô hấp tốt cho trẻ.



Cách phòng bệnh viêm phổi ở trẻ sơ sinh

VPSS là một căn bệnh nghiêm trọng, nếu không có những biện pháp phòng bệnh hay điều trì bệnh triệt để sẽ ảnh hưởng rất lớn cho sự phát triển của bé, nếu nặng có thể dẫn đến tử vong. Do đó, công tác dự phòng hiện tại và dự phòng xa cho các bà mẹ và cho những trẻ có một vai trò quan trọng, mục tiêu tránh không để xảy ra VPSS và không tái phát viêm phổi ở trẻ.

Công tác dự phòng hiện tại cho trẻ: cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn, bú ngay từ giờ đầu sau sinh, khi sữa mẹ ít, cần tìm hiểu nguyên nhân tại sao sữa mẹ ít. Có thể giúp tiết sữa mẹ nhiều, bằng cách mẹ dùng các loại thuốc kích thích tiết sữa như Meko Lactagil. Kết hợp mẹ ăn uống đầy đủ và ngủ đủ giấc. Khi bé không thể tự bú được có thể đúc từng thìa nhỏ cho trẻ hoặc cho trẻ bú qua sonde.

 Người chăm sóc cho trẻ tuyệt đối vô trùng, vệ sinh nghiêm ngặt, mang khẩu trang và rửa tay sát trùng khi tiếp xúc với trẻ. Các dụng cụ để chăm sóc trẻ phải được sát trùng, vô trùng. Cách ly với các nguồn lây bệnh khác, khi người chăm sóc bị cảm ho hay có bệnh, tuyệt đối không tiếp xúc với trẻ. Đảm bảo nơi trẻ nằm, phải thông thoáng, có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Vào buổi sáng (7 - 8 giờ) hàng ngày, cho trẻ ra tắm nắng, với thời gian 30 - 40 phút. Khi trẻ ra tháng, cần tiêm chủng cho trẻ theo lịch tiêm chủng quốc gia.

Dự phòng xa đối với các bà mẹ: nhất thiết phải khám thai định kỳ, làm xét nghiệm trong thời gian mang, với một số các bệnh lý nhiễm trùng, liên quan đến bào thai như: xét nghiệm Rubella, CMV, Toxoplasma, Chlamydia, giang mai, HIV… Quá trình mang thai, dinh dưỡng phải chú trọng, ăn uống đầy đủ, có thể uống thêm canxi và viên sắt, acid folic. Nhằm giúp thai phát triển tốt và tăng cân đều. Quá trình chuyển dạ sinh, tránh không cho ối vỡ sớm.

Một khi ối vỡ trên 6 giờ trở đi, cần thiết xúc tiến cho sinh, tránh chuyển dạ kéo dài, bằng biện pháp tiên lượng cuộc sinh, sinh ngả âm đạo hay sinh mổ. Khi trẻ sinh ra có dấu hiệu ngạt, cần hồi sức tích cực và dùng thuốc kháng sinh dự phòng cho trẻ hoặc trẻ sinh ra có tình trạng nước ối xấu, như nước ối xanh, nhất thiết phải dùng kháng sinh toàn thân cho trẻ.

Dấu hiệu bệnh khi trẻ bị ho và cách chữa ho an toàn cho trẻ nhỏ

15:22 |
Ho ở trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh không phải là bệnh mà nó chỉ là triệu chứng, dấu hiệu của một số bệnh căn bệnh, có thể là bệnh đơn giản nhưng đó cũng có thể là triệu trứng của căn bệnh nghiêm trọng mà cha mẹ không nên xem thường. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu một số bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh có biểu hiện ho.



1. Viêm tiểu phế quản

Viêm tiểu phế quản là một trong những bệnh rất hay thường gặp ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là ở trẻ từ 3 – 6 tháng tuổi. Viêm tiểu phế quản xảy ra khi các tiểu phế quản nhỏ có kích thước < 2mm này bị viêm nhiễm do loại virus hô hấp có tên RSV gây ra làm cho tiểu phế quản bị sưng phù, tiết dịch làm đường thở bị chít hẹp khiến bé có triệu chứng thở khò khè.

Lúc đầu triệu chứng giống có thể giống như bé bị cảm (ho, sổ mũi, sốt nhẹ) nhưng sau đó bé sẽ ho nhiều hơn, ho có đờm (nhiễm trùng do vi khuẩn), khò khè, thở kéo lồng ngực… Nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến các biến chứng như viêm phổi, đường thở nhạy cảm… Hiện các nhà khoa học cũng chứng minh được mối liên hệ giữa bệnh Viêm tiểu phế quản và căn bệnh hen suyễn khi có khoảng 1/3 trẻ viêm phế quản có nguy cơ bị hen suyễn.

2. Viên thanh khí quản

Nếu tiếng ho của bé có dạng ông ổng nghe như tiếng chó sủa thì có thể bé bị viêm thanh khí quản, đây là kiểu ho đặc trưng do thanh khí quản bị phù nề thường gặp ở trẻ trong độ tuổi từ 3 tháng đến 3 tuổi. Nguyên nhân thường gặp là do bị nhiễm virus, bé bị cảm lạnh do thay đổi nhiệt độ… Bé sẽ ho nhiều vào ban đêm với tiếng ho ông ổng đặc trưng, các triệu chứng như thở rít, khó thở (do đường thanh khí quản bị hẹp do phù nề) cũng trở nên trầm trọng hơn.

Nếu viêm thanh khí quản không được điều trị có thể trở thành mức độ cấp tính với triệu chứng điển hình như ho, thở rít khi nằm yên, khó thở nặng, đường thanh khí quản hẹp nặng làm bé tím tái và gây tắc nghẽn hô hấp nguy hiểm đến tính mạng. Ngoài ra nếu không được điều trị kịp thời thì Viêm thanh khí quản cũng có thể gây viêm tai giữa, viêm khí phế quản, viêm phổi.

3. Viêm phổi

Viêm phổi là căn bệnh nghiêm trọng về đường hô hấp có thể gây nguy hiểm đến tính mạng đặc biệt là ở trẻ sơ sinh hay trẻ đẻ non, nhẹ cân nếu không được điều trị kịp thời và do hệ miễn dịch của bé còn rất yếu nên bệnh có tốc độ tiến triển rất nhanh và nặng.

Xét về nguyên nhân thì viêm phổi ở trẻ sơ sinh có rất nhiều nguyên nhân đa dạng, có thể do:

Vi khuẩn, virus như phế cầu, H.influenzae, coli, tụ cầu vàng…

Trẻ bị nhiễm bệnh trong thời gian sinh do hít phải nước ối, dịch tiết ở đường sinh dục

Ngoài ra tỷ lệ của trẻ bị viêm phổi còn liên quan đến quá trình vỡ ối của mẹ, các nhà khoa học ghi nhận nếu mẹ bị vỡ ối từ 6 – 12h trước sinh, từ 12- 24h và trên 24h thì tỷ lệ trẻ sơ sinh có nguy cơ mắc bệnh viêm phổi là 33%, 51% và 90%.

Dấu hiệu nhận biết trẻ viêm phổi: do ở trẻ sơ sinh, những dấu hiệu đặc trưng của viêm phổi không rõ ràng như ở người lớn nên các bậc phụ huynh cần phải đặc biệt chú ý quan sát và ngay khi nhận thấy trẻ có các dấu hiệu như sau cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay:

Thở nhanh: thở nhanh là triệu chứng xuất hiện sớm nhất khi trẻ bị viêm phổi (nhịp thở trên 60 lần trong 1 phút)

Trẻ bị sốt, ho khàn, ho có đờm (một số trẻ do sức khỏe yếu nên có thể ho ít thậm chí không ho), khó thở, li bì, bú kém, rút lõm lồng nhực.

4. Ho do cảm lạnh

Khi thấy bé ho quá nhiều cần đưa bé đi khám kịp thời​

Thông thường thì hầu hết các trường hợp trẻ có thể có triệu chứng ho tuy nhiên triệu chứng ho này lại không quá nghiêm trọng, đó là trường hợp trẻ ho do cảm lạnh. Thường các triệu chứng của cảm lạnh là có thể có sốt nhẹ, nghẹt chảy nước mũi, nước nhầy từ mũi xoang chảy xuống họng kích thích gây ho.
 Ho trong trường hợp này thường là tiếng ho khan, ho giúp làm sạch nước mũi chảy giúp bé dễ chịu hơn.Việc dùng thuốc kháng sinh trong trường hợp ho do cảm là không cần thiết vì cảm lạnh la do virus, trong khi thuốc kháng sinh dùng để điều trị trong trường hợp do vi khuẩn. Bạn có thể giúp bé cách sử dụng nước muối sinh lý làm trẻ dễ thở và hút mũi để hạn chế nước nhầy chảy xuống họng.

5. Viêm phế quản

Ho do Viêm phế quản thường được bắt nguồn từ cơn ho khan từng cơn, không đờm, sau đó tiến triển dần thành ho có đờm, kéo dài vào nửa đêm gần sáng. Ngoài ra do niêm dịch phế quản sưng lên nên đường thở của bé bị hẹp lại làm bé khó thở, thở khò khè, bú kém, trẻ mệt mỏi, có thể kèm hoặc không kèm theo sốt.

Vì các triệu chứng này cũng tương đồng với triệu chứng của các bệnh hô hấp khác nên việc các bậc phụ huynh nhận định cơn ho của bé có phải do viêm phế quản hay không không phải là dễ dàng, đó đó cách tốt nhất là khi thấy bé có các triệu chứng như trên thì nên đưa bé đi khám để bác sĩ chẩn đoán và điều trị kịp thời tránh các biến chứng của viêm phế quản như suy hô hấp.

6. Ho gà

Nếu bé chưa được tiêm vắc xin ho gà thì nếu cơn ho của bé có các đặc điểm sau, bạn cần nên đưa bé đi bệnh viện càng sớm càng tốt vì đây là căn bệnh đặc biệt nguy hiểm cho trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ dưới 12 tháng tuổi.

Ho gà gây ra do vi khuẩn Bordetella pertussis gây ra làm khí quản của bé bị tắc nghẽn do nhớt. Thường được bắt đầu nhưng chứng ho do cảm lạnh thông thường, tuy nhiên sau đó rất nhanh chóng bé sẽ có những cơn ho từng cơn kéo dài kéo dài 1 phút và các cơn ho diễn ra liên tục.

Khi bé gắng sức vào giữa hai cơn ho thì có tiếng hít sâu tạo âm thanh như tiếng “ót” giống tiếng gà kêu do không khí phải di chuyển qua khe thanh quản bị sưng phù và có thể rất nguy hiểm vì gây hiện tượng thiếu oxy trong cơ thể. Do đó để phòng tránh bệnh ho gà thì tiêm vaccine là cách hữu hiệu nhất.

Một số cách chữa trị ho ở trẻ em và trẻ nhỏ

Trẻ mới sinh sức đề kháng kém kết hợp thời tiết không dễ chịu khiến cho cơ thể luôn cần có sự chăm sóc sức khoẻ trẻ em chu đáo từ cha mẹ. Nhất là đối với bệnh ho trẻ sơ sinh



1. Thứ nhất

Trẻ ở giai đoạn 5,6 tháng là giai đoạn ” cửa sổ miễn dịch”, cơ thể trẻ cũng bắt đầu thay đổi cách chống đỡ với các yếu tố gây bệnh.

Từ khi sinh ra đến khi trẻ tròn 4 tháng, trẻ được bảo vệ bởi các yếu tố miễn dịch mà mẹ truyền cho bé trong quá trình mang thai, bắt đầu từ tháng thứ 5 trở đi, cơ thể trẻ đang tự hình thành khả năng miễn dịch riêng của chúng khi tiếp xúc với các yếu tố môi trường. Vì thế trẻ hay mắc các bệnh nhiễm khuẩn vào giai đoạn này. Điều đó giải thích tại sao trẻ mới sinh đến khi 4 tháng ít mắc bệnh.

2. Thứ hai

Hiện tượng ho trẻ em có đờm, sổ mũi, ho thường nhiều hơn khi nằm đói là do bé đã nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, rất có thể nếu không được điều trị, vi khuẩn có thể xâm nhập sâu vào trong cơ thể gây nên các nhiễm trùng đường hô hấp dưới như viêm phế quản, viêm phổi (bệnh nặng lên).

Bạn không nên tự ý cho trẻ uống thuốc chữa ho trẻ em mà nên đưa trẻ đi khám:

Với những nhiễm khuẩn đường hô hấp trên: Trẻ ho ít, nhịp thở dưới 50 lần /phút, không có cod cử, trẻ bú tốt, ngủ ngoan, không tím tái, không co rút lồng ngực. Với thể này, bạn có thể đưa bé đi khám, bác sĩ kê đơn thuốc và sau đó điều trị, chăm sóc tại nhà.

Nếu trẻ ngày càng ho nhiều, bú kém, mệt mỏi, có thể có tím tái nhất là khi trẻ ho hoặc khóc, nhịp thở nhanh trên 50 lần /phút, cánh mũi phập phồng hoặc có rút lõm lồng ngực…lúc này trẻ đã bị nhiễm khuẩn hô hấp nặng lên, bạn phải đưa trẻ đến bệnh viện ngay, và phải điều trị, chăm sóc trong bệnh viện.

Mẹo hạ sốt an toàn cho trẻ em

11:29 |
Trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh bị sốt luôn khiến cha mẹ lo lắng bởi trẻ còn quá nhỏ, dùng thuốc không đúng cách có thể gây hại cho sức khỏe của trẻ sau này.




Nhận biết trẻ sơ sinh bị sốt

Để nhận biết trẻ bị sốt hay không, cha mẹ có thể kiểm tra sốt bằng tay cũng là cách xác định sốt ở trẻ vì khi đó bạn sẽ cảm nhận độ nóng ở trẻ rõ hơn. Cách kiểm tra này hiệu quả hơn chúng ta nghĩ, nhưng nếu bạn tính đưa trẻ đến bác sĩ, thì hãy sử dụng nhiệt kế để có số liệu cụ thể.

Nhiệt độ trung bình của cơ thể được đo ở miệng là 36.5oC (97.6F). Nhiệt độ đo ở miệng thông thường có thể thay đổi vào khoảng thấp hơn 35.5oC (95.8F) vào buổi sáng và 37.5oC (99.4F) vào buổi chiều.


Nhiệt độ tăng nhẹ (từ 38 đến 38.5oC hoặc 100.4F đến 101.3F) có thể là do vận động, bận quần áo dày, tắm nước nóng hoặc thời tiết nóng. Đồ ăn hoặc đồ uống nóng cũng có thể làm tăng nhiệt độ miệng. Nếu bạn nghi ngờ một dấu hiệu nào đó tác động đến nhiệt độ cơ thể của trẻ, hãy kiểm tra lại nhiệt độ 30 phút một lần.

Cách hạ sốt cho trẻ sơ sinh 

Cho bé mặc quần áo thoáng mát

Quần áo nên hạn chế tối đa vì hầu hết nhiệt độ sẽ thoát qua da. Không nên trùm, bận đồ cho trẻ quá dày vì có thể là nguyên nhân khiến sốt cao hơn.

Trong thời gian trẻ cảm thấy lạnh hoặc run rẩy, hãy đắp cho trẻ một chiếc khăn mỏng. Nếu nhiệt độ thấp hơn 39oC (102F) thì chỉ cần xử lý như trên, thuốc hạ sốt ở trường hợp này là không cần thiết.

Lau mát hạ sốt cho trẻ

Sốt trên 40oC, sốt cao kèm co giật hoặc dọa co giật.

Lấy nhiệt độ của trẻ. Chuẩn bị 5 cái khăn có khả năng thấm nước tốt.

Cho ít nước lạnh vào thau, cho nước nóng vào bằng nửa lượng nước lạnh.

Kiểm tra độ nóng của nước bằng cách nhúng khuỷu tay vào thau nước, khi thấy bằng độ nóng giống như nước tắm trẻ hằng ngày là được.

Nhúng khăn vào nước và vắt ráo: 2 khăn lau hai hõm nách, hai khăn lau ở hai bẹn và một khăn lau khắp người.

Không đắp khăn lên trán vì ít có tác dụng hạ sốt, và cũng không đắp lên ngực vì tăng nguy cơ viêm phổi.

Cho thêm nước nóng vào khi thấy nước đã lạnh. Thay khăn cách 2 – 3/ lần.

Cách 15 phút kiểm tra nhiệt độ của trẻ/ lần. Khi nhiệt độ dưới 38,5oC thì ngưng lau mát.

Tiến hành lau khô và mặc quần áo mỏng cho trẻ.

Cặp nhiệt độ thường xuyên

Đừng quên cặp nhiệt độ sau 4 – 5 tiếng để theo dõi xem trẻ có hạ sốt không.

Nếu trẻ sốt trên 38,5 độ C kéo dài, không có dấu hiệu bớt nóng sau những biện pháp trên, cha mẹ cần nhanh chóng đưa trẻ đến bệnh viện với những bé sốt đi kèm co giật, cha mẹ cần đưa bé đến ngay cơ sở y tế để bác sĩ theo dõi.

Chú ý khi trẻ nhỏ bị sốt

Trong khoảng thời gian bé bị sốt kéo dài, bạn vẫn nên cho bé “ti mẹ” như bình thường. Khi bé xuất hiện các dấu hiệu bị mất nước như khô miệng, đi tiểu ít, ít nước mắt, mắt bị trũng xuống, bạn nên đưa bé đi khám vì bé có thể được bác sĩ chỉ định truyền chất điện phân để bổ sung lượng nước đã mất.

Nếu bé bị sốt do nhiễm trùng, bé sẽ xuất hiện các dấu hiệu nặng của bệnh rất nhanh. Đó là lý do vì sao bạn nên đưa bé đi khám càng sớm càng tốt.